Thứ Hai, 9 tháng 1, 2017

Thánh đô Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang: tham cứu về tín ngưỡng vũ trụ lưỡng hợp-lưỡng phân của vương quốc Chiêm Thành

Trần Kỳ Phương

Đồng tác giả với Rie Nakamura

Thánh đô Mỹ Sơn: Tín ngưỡng hoàng gia của tiểu quốc miền Bắc Chiêm Thành (Campà) *

Văn bia đầu tiên của Mỹ Sơn đã được phát hiện thuộc triều vua Bhadravarman, người mà sử liệu Việt Nam và Trung Hoa gọi là Phạm Hồ Đạt hay Fan Hu-ta, trị vì khoảng năm AD 380- 413. Minh văn này đề cập đến việc nhà vua dựng một ngôi đền để phụng hiến Thần Bhadresvara (Siva); và xác lập vùng đất được chọn để xây dựng thánh địa của hoàng gia, là, dựa vào ngọn núi thiêng ở phía nam thung lũng tên là Mahaparvata/ Đại Sơn Thần, mà, ngày nay nhân dân trong vùng gọi là núi Răng Mèo hay Hòn Quắp [C72 (ký hiệu văn bia Chàm)]( Jacques 1995: 5, 204; Trần 2002; 2004: 3-5, 33-5; Majumdar 1985: Inscription #4, 4-8).

Ngôi đền của đức vua Bhadravarman được dựng bằng gỗ để thờ linga của Thần Bhadresvara. Danh hiệu của linga, có khả năng, đó là sự kết hợp giữa tên riêng của vua Bhadravarman với Isvara, là một danh hiệu khác của Thần Siva, Bhadravarman + Isvara = Bhadresvara (Siva). Tín ngưỡng thờ linga của Siva đã được kế tục trong suốt nhiều thế kỷ tại Mỹ Sơn từ thời khởi đầu cho đến giai đoạn cuối.

Mỹ Sơn là một thung lũng hẹp, kín đáo, đường kính khoảng 2 km, được bao bọc bởi những rặng núi thấp; có một giòng suối lớn bắt nguồn từ ngọn núi thiêng ở phía nam chảy ngang qua thung lũng để đổ vào giòng sông thiêng Mahanadi/ Nữ Thần Đại Giang tức là sông Thu Bồn ở phía bắc [C147] (Majumdar 1985: #4, 7; Jacques 1995: 204).

Đền- tháp ở Mỹ Sơn được xây dựng liên tục qua nhiều thế kỷ, từ cuối thế kỷ thứ 4/5 cho đến thế kỷ 13/14. Có nhiều khả năng để kết luận rằng ngôi đền lớn B1 là ngôi đền trung tâm của thánh đô này, vì, những bộ phận kiến trúc được phát hiện tại đây có niên đại trải dài từ cuối thế kỷ thứ 7 cho đến thế kỷ 13/14; và, vì kích thước bề thế của ngôi đền cũng như vị trí trung tâm của nó trong bố cục tổng thể của khu di tích. (Minh họa #1)



#1/ Sơ đồ di tích Mỹ Sơn (Theo Parmentier và Boisselier)

Ngôi đền B1 hiện nay thờ một bộ yoni-linga, gọi là linga Bhadresvara (Siva). Đài thờ yoni-linga của B1 được đặt trên một cái hố vuông tại trung tâm ngôi đền dùng để rút nước lễ thánh tẩy. Kiến trúc của ngôi đền B1 hiện tồn là một công trình được trùng tu vào giai đọan muộn, khoảng thế kỷ 12-13. Đây là ngôi đền duy nhất trong kiến trúc Chàm có đế - tháp được xây hoàn toàn bằng sa thạch với một kích thước to lớn. (Minh họa #3)



#3/ Linga Bhadresvara thờ trong ngôi đền Mỹ Sơn B1

Cách bài trí của nhóm B hiện tồn, đã xuất hiện khoảng từ sau thế kỷ thứ 10, theo một phức hợp sau: tháp bày nghi lễ/ mandapa D1- tháp cổng/ gopura B2- ngôi đền chính/ kalan B1; các ngôi đền phụ B3, B4; tháp lửa/ kosagraha B5; tháp đựng nước thánh lễ B6; và bảy ngôi đền nhỏ thờ các vị thần tinh tú/ navagrahas / saptagrahas từ B7-B13. Hầu hết các công trình thuộc nhóm B đều được xây dựng và trùng tu liên tục từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 12/13.

Song song với nhóm B là nhóm C, cả hai đều được dựng theo trục đông - tây. Nhóm C cũng có sự bài trí tương tự nhóm B nhưng giản lược hơn, bao gồm một ngôi đền chính/ kalan C1- tháp cổng/ gopura C2 - tháp bày nghi lễ/ mandapa D2; tháp lửa/ kosagrha C3; công trình phụ C4; và ba ngôi đền phụ C5, C6, C7. Ngôi đền chính/ kalan C1 là một công trình trùng tu vào khoảng thế kỷ 11/12, tái xử dụng những bộ phận kiến trúc của ngôi đền trước kia như tym-pan, lanh-tô, v.v…thuộc thế kỷ 8/9. Ngôi đền C1 thờ ngẫu tượng của Thần Siva trong dạng nhân thể. Đây là một pho tượng tròn bằng sa thạch cứng, trong tư thế đứng, dựng trên một bệ yoni. Pho tượng có kích thước khá lớn, cao: 196 cm, được tạc bằng đá nguyên khối, đây là một kiệt tác của nền điêu khắc Chàm (Boisselier 1963: 55; AFAO-EFEO 1997: 98). Những phát hiện khảo cổ học tại nhóm tháp C đã cho phép nhận định rằng pho tượng Siva này được đeo các đồ trang sức bằng kim loại quý trong khi hành lễ.[1]

Y phục của tượng Thần Siva là một loại sampôt dài đến đầu gối, có vạt trước và vạt sau dài, dắt múi qua bên phải, loại sampôt này chỉ phổ biến trong điêu khắc Chàm trong một giai đoạn ngắn vào khoảng cuối  thế kỷ thứ  8 hoặc đầu thế kỷ thứ 9 mà thôi.[2] Khuôn mặt của thần được đặc tả với hàng lông mày giao nhau, hai mắt mở lớn có con ngươi, mũi thẳng, đôi môi dày với bộ râu mép thanh tú, tóc kiểu jata-mukuta kết lại bằng những lọn tóc có hình bông lúa mềm mại… đó là những đặc điểm nghệ thuật điêu khắc Chàm vào giai đoạn sớm, trước Phong cách Đồng Dương, tức là vào khoảng phần tư cuối cùng của thế kỷ thứ 8 hoặc phần tư thứ nhất của thế kỷ thứ 9 (Trần 1988: 33). (Minh họa #4)



#4/ Ngẫu tượng thần Siva nhân thể thờ trong ngôi đền Mỹ Sơn C1

So sánh cách bài trí và nội dung thờ tự của hai ngôi đền B1 và C1, chúng ta có thể đi đến một kết luận rằng, chúng phản ảnh tín ngưỡng thờ Siva trong hình thức lưỡng thể, tức là, thờ linga của thần kết hợp với nghi tượng của thần trong nhân thể (Trần 2004: 34-5; 2005: 132).

Hiện tượng tín ngưỡng Siva- lưỡng thể tại thánh đô hoàng gia Mỹ Sơn có thể được suy luận rằng, các vị vua Chàm muốn nhấn mạnh niềm tin tuyệt đối vào Đấng Toàn Năng của tín ngưỡng Siva được thị hiện bằng cả hai hình thái: một biểu tượng vũ trụ / Siva- linga cũng như  một hình tượng nhân thể được thần hoá / Siva- nhân thể; đó là vị thần chủ bảo hộ của các vương triều Campà. Hơn nữa, trong bối cảnh này, chúng ta có thể giả định rằng, ngẫu tượng Siva- linga thị hiện chính Thần Siva, còn ngẫu tượng Siva -nhân thể thị hiện những vị vua Chàm đã được phong thần (?).[3]

Ngoài nhóm B và C ra, tại Mỹ Sơn, hình thái thờ phượng Siva- lưỡng thể còn xuất hiện tại nhóm A’ và  nhóm E.

Nhóm A’ bao gồm nhiều đền- tháp được xây qua các thời kỳ khác nhau trong giai đoạn sớm, hình thái tín ngưỡng Siva -lưỡng thể được phát hiện tại hai ngôi đền A’1 và A’4: ngôi đền A’1 thờ Siva- linga; còn ngôi đền A’4 thờ  Siva-nhân thể. Ngẫu tượng Siva-linga của ngôi đền A’1 đã không được tìm thấy trong lòng tháp, nhưng ngẫu tượng Siva-nhân thể của ngôi đền A’4 thì được tìm thấy ngay tại tháp. Đây là một pho tượng tròn, trong tư thế đứng, tạc bằng đá nguyên khối, đặt trên yoni, tượng cũng được đánh giá là một kiệt tác của điêu khắc Chàm, y phục của tượng tương tự với tượng Siva C1 (Boisselier 1963: 54). Pho tượng Siva A’4 được điêu khắc rất trau chuốc, kích thước nhỏ hơn tượng Siva C1; xét về kỹ thuật tạc tượng và nghệ thuật thể hiện có thể nhận định rằng hai pho tượng Siva đứng này được chế tác cùng thời (Trần 1988: 32).[4]

Hình thái thờ phượng này cũng xuất hiện tại nhóm E, với ngôi đền E1 thờ Siva- linga và ngôi đền E4 thờ Siva-nhân thể. Ngôi đền E1 là một trong những công trình kiến trúc sớm nhất tại Mỹ Sơn, đài thờ của ngôi đền này là một kiệt tác của nền điêu khắc Chàm. Đài thờ và ngôi đền Mỹ Sơn E1 có niên đại vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ 8 (Trần 2005: 135-37). Đài thờ E1 thờ một bộ yoni-linga kích thước khá lớn, được phục dựng bởi Henri Parmentier vào đầu thế kỷ trước (Parmentier 1918: Pl. CXX).

Về phía bắc ngôi đền E1 là ngôi đền E4, những bộ phận trang trí kiến trúc của ngôi đền, đặc biệt, hai bức phù điêu lớn bằng sa thạch, là bức lanh-tô thể hiện múa nhạc cung đình và bức tym-pan thể hiện Nữ thần Devi (Boisselier 1963: 212-13; Trần 1988: 49-50)[5] mang những đặc trưng nghệ thuật điêu khắc cũng như kỹ thuật cấu trúc của ngôi đền, cho biết nó được xây dựng vào khoảng nửa sau thế kỷ 11, có thể, dưới triều vua Harivarman, khoảng năm 1081, ‘khi ông chiến thắng tất cả kẻ thù xâm lược Campà  và cho tái thiết lại thánh địa thờ thần Srisanabhadesvara’ như trong một minh văn của ông tìm thấy tại Mỹ Sơn đã đề cập [C90] (Majumdar 1985: #62, 161-67; Jacques 1995: 115-22).
          
Ngôi đền E4 thờ ngẫu tượng Siva, đó là một pho tượng tròn trong tư thế đứng đặt trên một bệ yoni có phần đài thờ hình vuông trang trí một hàng vú phụ nữ tượng trưng cho Nữ thần Uroja/ Nữ thần Dựng nước. Y phục của tượng là một sampôt dài đến cổ chân, có vạt lớn ở phía trước, được trang trí rất cầu kỳ, gấp lại thành nhiều lớp tạo nên hình chữ z, đó là những đặc điểm để có thể xác định rằng pho tượng được chế tác vào khoảng thế kỷ cuối thế kỷ 11 hoặc đầu thế kỷ 12 ((Boisselier 1963: 212).[6]

Như vậy, những ngẫu tượng Siva- linga và  Siva- nhân thể của các ngôi đền B1-C1, A’1-A’4 và E1-E4 chứng minh rằng tín ngưỡng Siva-lưỡng thể đã được thực hành tại Mỹ Sơn suốt từ thế kỷ thứ 8 cho đến thế kỷ 12/13. Trong tất cả các di tích đền-tháp Hindu của vương quốc Chiêm Thành, Mỹ Sơn là thánh địa duy nhất thực hành hình thái tín ngưỡng này.

Ngoại trừ một vài bức tym-pan nhỏ (phù điêu trang trí trên cửa tháp) thể hiện các nữ thần Hindu, tại Mỹ Sơn chưa hề tìm thấy một ngẫu tượng nữ thần nào được thờ trong các ngôi đền chính, điều này cho thấy các vị nữ thần đã không giữ vai trò trọng yếu tại khu thánh đô hoàng gia này.

Thánh đô Pô Nagar Nha Trang: Tín ngưỡng hoàng gia của tiểu quốc miền Nam Chiêm Thành (Campà)

Thánh địa Pô Nagar Nha Trang, cách Mỹ Sơn khoảng 450 km về phía Nam, nay thuộc thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà, di tích này tọa lạc trên một ngọn đồi nhỏ sát bên cửa sông Cái và sông Hà Ra là hai dòng sông lớn của thành phố Nha Trang. Theo minh văn, ngôi đền đầu tiên xây dựng tại đây có từ trước thế kỷ thứ 8. Ngôi đền bằng gỗ đầu tiên của thánh địa này đã bị đốt cháy năm 774; rồi vào năm 784, ngôi đền đầu tiên bằng gạch và đá đã được dựng lên tại đây. Theo những kết quả khai quật khảo cổ học được xúc tiến bởi các nhà khảo cổ học của Trường Viễn Đông Bác Cổ vào đầu thế kỷ trước, có tất cả 10 công trình kiến trúc được xây dựng trên ngọn đồi có diện tích khoảng 500 m2 này (Parmentier 1909: 111-32).

Ngày nay, sau những tàn phá của chiến tranh và huỷ hoại của thời gian, chỉ tồn tại năm kiến trúc bao gồm ngôi đền chính/kalan phía bắc (Tháp A), ngôi đền phụ phía nam (Tháp B), ngôi đền nhỏ phía nam (Tháp C), ngôi đền phụ tây-bắc (Tháp F) và những hàng cột bằng gạch của mandapa (Công trình M) dựng phía trước dưới chân đồi. (Minh họa #2)



#2/ Sơ đồ di tích Pô Nagar Nha Trang (Theo Parmentier và Shige-eda)

Cũng theo văn bia chúng ta biết rằng, hình tượng đầu tiên của Nữ thần Bhavagati[7] được dựng lên tại thánh địa này thuộc triều vua Satyavarman năm 784 sau khi ông đánh đuổi được hải tặc người Java vào năm 774 và cho xây dựng lại ngôi đền đã bị cướp phá [C38] (Majumdar 1985: #22, 41-4). Về sau, hình tượng của nữ thần lại được liên tục dựng lên trong những năm 817 [C31] và năm 918 [C33] (Majumdar 1985: #26, 61-4; # 45, 138-39). Năm 950, pho tượng bằng vàng của nữ thần bị người Khmer cướp mất [C38]; và vào năm 965, vua Jaya Indravarman đã cho dựng lại tượng nữ thần bằng đá [C38] (Majumdar 1985: # 47, 143-44). Năm 1050, danh hiệu Yapu-Nagara của nữ thần, lần đầu tiên, được tôn xưng bởi vua Sri Paramesvaravarman [C30]; năm 1084 bởi vua Paramabodhisatva [C30]; và năm 1160 bởi vua Jaya Harivarman [C30] (Majumdar 1985: #55, 151-53; #76, 194-95); vào các năm 1256, 1267 bởi công chúa Suryadevi [C31]; và năm 1275 bởi công chúa Ratnavali [C37] (Schweyer 2004:125).Như vậy, việc tôn thờ Nữ thần Bhagavati được thực hiện vào những năm 784, 817, 918, 965; và về sau, dưới danh hiệu Pô Yang Inu Nagar vào những năm 1050, 1160, 1256 và 1275, được kế tục qua nhiều thế kỷ, điều đó đã khẳng định vai trò trọng yếu của Nữ thần Mẹ Xứ Sở tại thánh địa Pô Nagar Nha Trang.[8]

Pho tượng chính của thánh đô Pô Nagar Nha Trang là ngẫu tượng của Nữ thần Bhagavati/ Đấng Chí Tôn hiện vẫn được tôn thờ trong ngôi đền chính phía bắc. Tượng được tạc bằng nguyên khối sa thạch cứng. Đầu tượng đã được phục chế lại theo kiểu thức của người Kinh/Việt. Pho tượng thể hiện nữ thần có mười tay, ngồi trên một toà sen đặt trên bệ yoni và một đài thờ vuông, tựa vào một cái ngai có trang trí hình tượng kala-makara. Hai bàn tay trước, bàn tay trái lật ngữa ra đặt trên đùi thủ ấn varada-mudra/ mãn nguyện ấn, bàn tay phải thủ ấn abhaya-mudra/ vô uý ấn; còn các bàn tay phía sau cầm các loại vũ khí tùy thuộc như, bên phải, từ dưới lên, là:  một lưỡi dao, một mũi tên, một vòng cakra/ nhật luân xa, một cái giáo; bên trái, từ dưới lên, là: một cái chuông nhỏ, một ankusa/ lưỡi rìu, một con ốc (?), một cái cung. Pho tượng Nữ thần Bhagavati của thánh đô Pô Nagar là một kiệt tác của nền điêu khắc Chàm, chất liệu cũng như phẩm chất nghệ thuật tuyệt vời của pho tượng đã phản ảnh vai trò quan trọng của nó trong tín ngưỡng hoàng gia Chiêm Thành xưa kia. Niên đại của tượng được các nhà lịch sử nghệ thuật xác định vào khoảng cuối thế kỷ thứ 10 hoặc giữa thế kỷ 11.[9] (Minh họa #5)


#5/ Ngẫu tượng nữ thần Yang Inu Po Nagar thờ trong ngôi đền chính di tích Po Nagar Nha Trang

          
#6/ Biểu tượng Hon-kan của người Chăm

Gắn liền với thánh địa Pô Nagar Nha Trang là truyền thuyết về Nữ thần Pô Yang Inu Nagar được lưu truyền phổ biến trong cộng đồng người Chăm cũng như người Kinh/Việt tại các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận có nội dung chính như sau: “Bà sinh ra từ mây trời và sóng biển, xuất hiện tại núi Đại An, tỉnh Khánh Hòa, được vợ chồng tiều phu nuôi dưỡng. Bà là một cô gái xinh đẹp. Nhân một ngày lũ lụt Bà đã hoá thân vào một cây trầm để trôi về biển Bắc. Cây trầm được vớt lên dâng cho thái tử ở vương quốc biển Bắc. Vào một đêm trăng Bà hiện ra từ cây trầm và được thái tử đem lòng yêu thương. Họ ăn ở với nhau có hai người con trai. Một hôm Bà nhớ cha mẹ nên đã cùng hai con trai nhập vào cây trầm trôi về lại quê hương ở miền Nam. Ở quê nhà, Bà đã dạy cho dân biết cày cấy, trồng trọt  và dệt vải. Sau khi đi chinh chiến về, thái tử mới biết vợ và hai con đã trở về quê nhà nên đem chiến thuyền đi tìm. Vì quân lính của thái tử gây nhũng nhiễu cho dân nên Bà đã dùng thần lực phá tan chiến thuyền của thái tử. Xác của những chiến thuyền biến thành những tảng đá nổi lên ở cửa sông. Bà là đấng sáng tạo nên đất nước, sinh ra gỗ trầm hương và lúa gạo…Nhân dân ngưỡng mộ công đức của Bà nên đã cho xây tháp để thờ Bà và hai người con trai của Bà” (Inrasara 1994: 36-39; Nguyễn Thế 1995: 55; Lafont 1996: 49; Lý 2000: 115-26).[10]
          
Lễ hội chính của thánh địa Pô Nagar Nha Trang được tổ chức hằng năm vào các ngày 23 Âm lịch (khoảng tháng 4 Dương lịch). Vào dịp này, cư dân địa phương, gồm người Việt/ Kinh, tổ chức nghi lễ tắm và thay y phục cho tượng nữ thần, ngoài ra, các điệu múa thiêng (múa bóng) và âm nhạc kể lại sự tích của nữ thần cũng được biểu diễn. Tên gọi của Nữ thần Pô Yang Inu Nagar đã được Việt hóa trở thành Thiên Y A Na, và thánh địa này được người Việt/ Kinh ở địa phương gọi là Tháp Bà.

Về phần người Chăm, ngày nay, tín ngưỡng Nữ thần Pô Yang Inu Nagar  vẫn được bảo tồn và phổ biến trong cộng đồng của người Chăm Bà-la-môn tại hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, bà được tôn thờ là một trong ba vị thần chính, cùng với hai vị nam thần khác là Pô Rame và Pô Kloong Garai. Tại vùng này, lễ tế dành riêng cho nữ thần gọi là lễ Chabun, lễ Thần Mẹ Xứ Sở- Pô Inu Nagar Taha, được tổ chức rất trọng thể vào tháng Chín hằng năm theo lịch Chăm (khoảng tháng 11 dương lịch) tại đền thờ của bà ở làng Hữu Đức, tỉnh Ninh Thuận. Để chuẩn bị lễ Chabun, trước hết, người Chăm làm lễ đón rước y phục của nữ thần được cất giữ bởi người Raglay, một sắc tộc nói tiếng Malayo-Polynesian/ Mã Lai Đa Đảo được coi là anh em với người Chăm sinh sống tại miền núi phía tây tỉnh Ninh Thuận. Sau đó làm lễ rước y phục, lễ mở cửa đền, lễ tắm tượng, lễ mặc trang phục cho tượng, v.v…Kèm theo các nghi lễ trên là các điệu múa thiêng và hát kể về sự tích và ca ngợi công đức của nữ thần được thực hiện bởi hai thầy tu sĩ nam (Pô Dhia và Pô Kadhar) một bà bóng (Muk Pajau) (Sakaya 2003: 149-58).

Còn ở miền Trung Việt Nam, từ tỉnh Thừa Thiên-Huế cho đến tỉnh Khánh Hòa, tín ngưỡng Thiên Y A Na rất phổ biến trong cộng đồng người Việt/ Kinh sinh sống tại đây. Hầu hết đền thờ Thiên Y A Na của người Việt/ Kinh ở miền này đều được dựng bên sông hay ở cửa sông. Nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận rằng, tín ngưỡng Thiên Y A Na của người Việt/ Kinh tại miền Trung Việt Nam là một kế thừa trực tiếp từ đời sống tinh thần của cư dân Chiêm Thành trước kia (Tạ 1989: 259-64; Nguyễn Thế 1995: 55- 67; Nguyễn Hữu 2001: 138-66).

Về tính chất vũ trụ lưỡng hợp-lưỡng phân của hai thánh đô hoàng gia Chiêm Thành

Cùng với những khảo chứng các tác phẩm nghệ thuật kể trên, xét về mặt vị trí toạ lạc của hai thánh địa, chúng ta thấy rằng Mỹ Sơn được dựng trong một thung lũng kín đáo có núi vây quanh; ngược lại, Pô Nagar Nha Trang được dựng trên một ngọn đồi nhỏ ven sông sát cửa biển. Địa thế của hai thánh đô này chứng tỏ rằng: Mỹ Sơn mang yếu tố núi; còn Pô Nagar Nha Trang mang yếu tố biển. Mỹ Sơn thuộc tiểu quốc Amaravati ở miền Bắc;[11] còn Pô Nagar Nha Trang thuộc tiểu quốc Kauthara ở miền Nam. Như vậy, hai thánh địa hoàng gia của Chiêm Thành, từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 13, đã phản ảnh hiện tượng sau: Mỹ Sơn = Siva/ Núi/ Cha; Pô Nagar Nha Trang = Bhagavati- Pô Yang Inu Nagar/ Biển/ Mẹ. Chức năng đặc trưng của hai thánh địa hoàng gia này đã phản ảnh hình thái tín ngưỡng vũ trụ lưỡng hợp-lưỡng phân được thực hành bởi các vương triều Chiêm Thành trong suốt chiều dài lịch sử của vương quốc.

Theo truyền thuyết của người Chăm, thì, vương quốc Campà được trị vì bởi hai thị tộc là Cau và Dừa (Jacques 1995: 207-12). Thị tộc Cau, tiếng Chăm gọi là Pinang (Kramuk Vansh, tiếng Sanskrit) thuộc dòng Vua Núi, tiếng Chăm gọi là Stau Chok; còn thị tộc Dừa, tiếng Chăm gọi là Li-u (Narikel Vansh, tiếng Sanskrit) thuộc dòng Vua Biển, tiếng Chăm gọi là Stau Thik. Dựa theo những yếu tố đặc trưng đã nêu trên của hai thánh địa Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang, chúng ta có thể luận rằng thị tộc Cau thuộc về Mỹ Sơn tức là miền Bắc; còn thị tộc Dừa thuộc về Pô Nagar tức là miền Nam (Trần 2004: 4-5).[12]

Trong văn bia vào những thế kỷ 12 và 13 tìm thấy tại Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang đã đề cập đến nhiều vị vua cúng tiến đền đài, ngẫu tượng và lễ vật cho cả hai thánh địa hoàng gia. Chẳng hạn, năm 1113- 1149, vua Jaya Indravarman III đã cho xây dựng lại đền thờ tại Mỹ Sơn và Pô Nagar [C28]; và năm 1201, vua Jaya Paramesvaravarman II đã cho dựng lại tất cả linga ở miền Nam cho Nữ thần Pô Yang Inu Nagar (Pô Nagar Nha Trang) cũng như ở miền Bắc cho Thần Srisanabhadresvara (Mỹ Sơn) [C86] (Le Bonheur 1994: 272; Schweyer 2004: 123-25).

Việc cúng tiến của các vị vua Chiêm Thành kể trên vào hai thánh đô của hoàng gia ở miền Bắc cũng như miền Nam vương quốc đã phản ảnh một hiện tượng rằng, họ đã cầu nguyện nhị vị nam nữ chư thần phò hộ cho toàn thể vương quốc trên phương diện cộng cư của hai tiểu quốc/ thị tộc (?) được tương hợp trong xu hướng tín ngưỡng vũ trụ lưỡng hợp-lưỡng phân.

Bảng 1: Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang

Mỹ Sơn/ Nam    Pô Nagar Nha Trang/ Nữ
                         Bhadresvara/ Siva    Bhagavati/ Parvati/ Pô Yang Inu Nagar        
Núi                   Biển    
Cha                  Mẹ      
Cau                  Dừa    
Bắc                  Nam   
Thung lũng        Đồi nhỏ bên sông sát cửa  biển 
                                  
Tín ngưỡng vũ trụ lưỡng hợp-lưỡng phân được thích ứng trong xã hội của cộng đồng người Chăm

Tương tự như tính lưỡng hợp-lưỡng phân được tham khảo từ hai thánh đô tiểu biểu của hoàng gia Chiêm Thành, tính lưỡng hợp-lưỡng phân được phát hiện nổi bật trong cộng đồng người Chăm hiện nay ở miền Nam Trung bộ thuộc hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.

Người Chăm ở vùng này được chia thành hai nhóm dựa vào tôn giáo của họ. Một nhóm, được gọi là Chăm hay Bà-la-môn là hậu duệ của một hình thái đạo Hindu đã được bản địa hoá. Người Chăm/Bà-la-môn thờ phượng một vị thần gọi là Pô Yang và những vị vua đã được phong thần trong các ngôi đền cổ được xây dựng từ các thế kỷ 13/14 và 17/18 mà họ gọi là bimong. Họ kiêng ăn thịt bò. Thường hoả thiêu khi chết. Họ được hướng dẫn bởi một nhóm tu sĩ gọi là Pa Seh.  Còn nhóm kia, được gọi là Bani, là hậu duệ của một hình thái đạo Hồi đã được bản địa hóa. Người Bani thờ phượng Pô Alwah (Allah) trong thánh đường (mosque) gọi là thang mưki trong làng của họ. Họ kiêng ăn thịt heo. Khi chết họ được mai táng chứ không hoả thiêu. Họ được hướng dẫn bởi một nhóm tu sĩ gọi là Pô Char.

Có nhiều truyền thuyết đã giải thích việc phân chia cộng đồng của người Chăm thành hai nhóm: ChămBani, là để mang lại hoà bình trong xã hội của họ. Theo truyền thuyết, ChămBani được gọi là AhierAwar. Cả hai từ đều có gốc tiếng Ả Rập. Ahier nghĩa là “phía sau, sau” and Awar nghĩa là “phía trước, trước”. Cũng theo truyền thuyết Ahier nghĩa là ChămAwar nghĩa là Bani.

Trong truyền thuyết, Ahier được diển tả là giống đực và Awar được diển tả là giống cái. Người Chăm diển tả những ý niệm tương tự như Ahier là đàn ông và Awar là đàn bà. Những người già trong làng Chăm giải thích rằng AhierAwar cũng tương tự như hai đầu trừ (-) và cộng (+) của một viên pin; chúng ta phải có cả hai để khiến động cơ hoạt động; cũng vậy, trong xã hội phải có AhierAwar để điều hoà. Do đó, Ahier hiện hữu cho Awar, còn Awar hiện hữu cho Ahier; và sự độc lập của hai nhóm giữ cho thế giới của người Chăm tồn tại cân bằng bên nhau.

Nhà nghiên cứu người Mỹ David Blood đã sống nhiều năm với cộng đồng người Chăm trước năm 1975, đã chỉ ra rằng xu hướng lưỡng hợp-lưỡng phân trong vũ trụ luận của người Chăm dựa trên hai vương triều: vương triều cha và vương triều mẹ (Blood 1981: 43, 48). Trong quá trình nghiên cứu điền dã tại cộng đồng người Chăm, chúng tôi nhận thấy rằng hai khái niệm tương hàm/tương phản này là lối nhìn căn bản để người Chăm am hiểu thế giới của họ.

Theo âm lịch của người Chăm, một tháng được chia thành hai phần: mười lăm ngày đầu gọi là bingun thuộc về Ahier; mười lăm ngày sau gọi là klam thuộc về Awar. Tương tự như vậy, ba ngày đầu tuần, Chủ Nhật, Thứ Hai và Thứ Ba được xem là Ahier; ba ngày cuối tuần, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy được xem là Awar. Phần trên của nhân thể từ đầu đến rốn được gọi là akhar, thuộc về Ahier; phần dưới của nhân thể từ rốn tới chân đươc gọi là tanuh riyavà, thuộc về Awar.

Nam tính của Ahier và nữ tính của Awar cũng được thể hiện tiêu biểu bởi hai nhóm tu sĩ. Vai trò về giống (gender) của tu sĩ Bà-la-môn và tu sĩ Bani được biểu hiện bằng trang phục và cử điệu của họ. Tu sĩ Bà-la-môn, khi giữ vai chủ tế trong một buổi tế lễ, quấn lên đầu họ một cái khăn xếp màu trắng theo một kiểu thức đặc biệt, và hình dáng của cái khăn xếp tượng trưng cái linga/dương vật; trong khi tu sĩ Bani thì lại đắp thêm một y phục lên trên cái khăn xếp của họ gọi là khan djram, đó là y phục dành riêng cho phụ nữ Bani, và, tu sĩ Bani khi choàng cái khan djram thì theo cùng một kiểu của phụ nữ Bani. Tu sĩ Bà-la-môn luôn luôn ngồi xếp bàn như đàn ông ngồi trong lễ tế; trong khi, tu sĩ Bani ngồi gấp chéo hai chân qua một bên như phụ nữ ngồi trong tế lễ. (Minh họa #7 và #8)



#7/ Y phục của người Chăm Bà-la-môn trong dịp Tết Ka-Tê



#8/  Y phục của người Chăm Bani trong lễ cưới

Một điều thú vị nữa là, mặc dầu tu sĩ Bà-la-môn tượng trưng Ahier (nam) và tu sĩ Bani tượng trưng Awar (nữ), họ đều có những vật sở hữu bộc lộ tính tương hàm/tương phản (về tính dục). Chẳng hạn, mỗi tu sĩ Bà-la-môn có một cái túi hình chữ nhật màu vàng như một phần trang phục của họ; trong khi, mỗi tu sĩ Bani có ba cái túi như một phần trang phục của họ; trong ba cái túi của tu sĩ Bani, có một cái hơi lớn hơn hai cái kia, chúng được cột lại bằng cùng một sợi dây. Cái túi của tu sĩ Bà-la-môn tượng trưng cho âm vật; còn ba cái túi của tu sĩ Bani thì tượng trưng cho dương vật và hai tinh hoàn.

Những cái túi của cả AhierAwar tượng trưng cho sự chấp thuận hoà đồng lẫn nhau, và điều này tương ứng với khái niệm về “sự tương hợp lưỡng tính hay lưỡng hợp-lưỡng phân” đã đựợc nêu lên bởi Janet Hoskins, một nhà nghiên cứu về những khái niệm bản địa về giống (gender) và sự tương tác trong xã hội của những người Kodi nói tiếng Nam Đảo ở dãi phía Tây đảo Sumba trong quần đảo Lesser Sunda thuộc Indonesia. Bà đã giải thích khái niệm đệ quy tương hợp lưỡng tính / lưỡng hợp-lưỡng phân bằng cách trích dẫn James Fox: “Có nhiều biểu tượng phức tạp về cấu trúc lưỡng tính ở miền Đông Indonesia tham dự vào vai trò của nguyên lý đệ quy tương hợp này: Nam bao hàm Nữ, Nữ bao hàm Nam; Nội bao hàm Ngoại, Ngoại bao hàm Nội; Đen, Trắng, Trắng, Đen” (Hoskins 1987: 197).

Trong sinh hoạt của cộng đồng người Chăm, có một biểu tượng bùa chú được xử dụng bởi các tu sĩ và các thầy Sharman/ phù thuỷ trong nhiều nghi lễ; và đó cũng là cách mà người Chăm dùng để diển tả thế giới quan của họ. Biểu tượng này được gọi là Hòn-kan. Hòn- kan được tạo nên bởi hai con số và hai hình tượng. Biểu tượng ở trung tâm là một vòng tròn để chỉ mặt trời, phía dưới mặt trời là mặt trăng khuyết. Phía trên mặt trời có một con số 6 và phía dưới mặt trăng khuyết có một con số 3. Mặt trời và số 3 thuộc về Ahier; còn mặt trăng khuyết và số 6 thuộc về Awar. Người Chăm quan niệm rằng con số 9 là con số lớn nhất trong hệ thống số đếm. Người Ahier số 3 cộng với người Awar số 6 trở thành số 9 là con số hoàn hảo nhất. Như vậy, biểu tượng Hon- kan bao gồm hình tượng của AhierAwar nêu lên hình thức hoàn hảo nhất của sự hiện hữu: thống nhất, cân đối, bền vững và hoà bình. Nói một cách khác, khi AhierAwar cùng hiện hữu, thế giới của người Chăm tìm được sự thống nhất (Nakamura 1999: 87-92). (Minh họa #6)

Như vậy, tính lưỡng hợp-lưỡng phân đã được phát hiện trong vũ trụ luận và thế giới quan của người Chăm; khái niệm về sự thống nhất và hoà hợp bằng cách thừa nhận hai vương triều tương hàm/tương phản đã được phát hiện trong những nghi lễ Chăm; và đặc tính này cũng đã được biểu trưng bằng hình tượng Hòn-kan, tất cả chừng như đã bổ sung cho một giải thích khả dĩ về tính lưỡng hợp-lưỡng phân phát hiện tại các thánh đô hoàng gia Chiêm Thành; và, điều đó cũng giải thích vì sao vua Jaya Indravarman (miền Nam?) và vua Jaya Paramesvaravarman (miền Bắc?) đã phải cúng tiến vào cả hai thánh đô Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang.

Bảng  2:  AhierAwar (Nakamura 1999: 96)

Ahier/ Chăm (trước/phía trước)           Awar/ Bani (sau/phía sau)
Nam (Vương triều Cha)               Nữ   (Vương triều Mẹ)
Paseh                                          Pô Char
15 ngày đầu tháng, Bingun         15 ngày cuối tháng , Klam
Chủ Nhật, Thứ Hai, Thứ Ba        Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy
Nóng, Lửa, Mặt trời                    Lạnh, Nước, Mặt Trăng
Từ bình minh tới ngọ                   Từ ngọ tới hoàng hôn
Phần trên nhân thể                      Phần dưới nhân thể
Sổ 3, bầu trời, cha                      Số 6, mặt đất, mẹ
Cái chết (?)                                 Cái sống, sự sinh

Kết luận

Nền kinh tế của Chiêm Thành chủ yếu dựa vào hải thương, vì vậy, sự thống nhất hai tiểu quốc ở hai miền Nam và Bắc Chiêm Thành chính là sự tham gia tích cực vào hoạt động hải thương của vương quốc này. Tiểu quốc miền Nam, Kauthara vốn được biết  là miền đất giàu trầm hương (Nguyễn Hiền 1991: 6, 34), là sản phẩm nổi bậc nhất của Chiêm Thành trên thị trường quốc tế; trong khi đó, tiểu quốc miền Bắc, Amaravati vốn được biết là một cảng-thị trù phú, chẳng hạn, Đại Chiêm Hải Khẩu ở vùng Hội An  ngày nay, đã từng giữ một vai trò quan trọng trong mối giao thương với Trung Hoa, nơi đã là thị trường lớn nhất của các loại lâm sản xuất đi từ Chiêm Thành / Campà (Southworth 2004: 226-28; Momoki 2004).

Hai thánh đô hoàng gia Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang dường như phản ảnh sự nổ lực của triều đình Chiêm Thành để thống nhất hai tiểu quốc của hai miền Nam và Bắc Chiêm Thành bằng việc áp dụng sự kết hợp tính vũ trụ lưỡng hợp-lưỡng phân. Mỹ Sơn ở miền Bắc, thờ phượng Thần Siva và những vị vua được phong thần biểu hiện cho vương triều của Ahier; trong khi đó, Pô Nagar Nha Trang ở miền Nam, thờ phượng Nữ thần của vương quốc, biểu hiện của vương triều Awar. Các vị vua Chiêm Thành đã cúng tiến cho cả hai thánh đô Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang để thống nhất một cách tượng trưng hai tiểu quốc này, mang lại sự hoà hợp và thịnh vượng cho cả hai miền.

Xu hướng vũ trụ lưỡng hợp-lưỡng phân của người Chăm có thể xem là được bắt rễ từ một nguồn gốc sâu xa trong lịch sử của họ, nhưng cũng có thể hiểu rằng xu hướng này được san sẻ từ một hình thái vũ trụ luận phổ biến trong cộng đồng các cư dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesian) ở Đông Nam Á như Hoskins đã mô tả (Hoskins 1987:174-94). Vũ trụ luận lưỡng tính là khái niệm chính để tìm hiểu Chiêm Thành/ Campà. Nó hướng dẫn chúng ta tìm hiểu về cấu trúc của vương quốc cổ này trong quá khứ cũng như trong xã hội đương đại của những hậu duệ Campà./.

Tài liệu tham khảo:
AFAO-EFEO/Association Francaise des Amis de l’Orient and Ecole Francaise d’Extreme-Orient  1997,  Le Musée de Sculpture Cam de Da Nang, Editions de l’AFAO, Paris.
Blood, Doris 1981, ‘Aspects of Cham Culture’, Notes from Indochina on Ethnic Minorty Cultures, Summer Institute of Linguistics- Museum of Anthropological Publication, No. 6, Dallas.
Boisselier, Jean 1963, La Statuaire du Champă: recherches sur les cultes et l’iconograpghie, Publications de l’Ecole Francaise d’Extreme- Orient 54 (E.F.E.O.), Paris.
Hoskins, Janet 1987, ‘Complementarity in this World and the Next: Gender and Agency in Kodi Mortuary Ceremonies’, M. Strathern, (ed.) Dealing with Inequality, Cambridge University Press, Cambridge.
Inrasara 1994, Văn học Chăm, Nhà Xuất Bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
Jacques, Claude 1995, Études Épigraphiques sur le pays Cham (réunies par Claude Jacques), Réimpression de l’École Francaise d’Extreme-Orient, No. 7, Paris.
Lafont, Pierre-Bernard 1996, ‘Mythology du Champa, les Dieux du Champa’, L’Âme du Viet Nam, Cercle d’Art, Paris.
Le Bonheur, Albert 1994, ‘L’art du Champa’, L’art de l’Asie du Sud-Est, Citadelles & Mazenod, Paris.
Liebert, Gosta 1986, Iconograghic Dictionary of the Indian Religions: Hindu-Buddhism-Jainism, Sri Satguru Publications, Dehli.
Majumdar, R. C. 1985,  Champa: history and culture of an Indian colonial kingdom in the Far East 2th -16th centuries AD, Gian Publ. House (reprint), Dehli.
Lý, Việt Dũng 2000, ‘Truyện bà Tiên Thiên Y A Na’, Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ, Số 2 (28), Sở Khoa học Công nghệ và Môi Trường Thừa Thiên-Huế, Huế.
Maspéro, George 1988, Le Royaume de Champa, École Francaise d’Extrème-Orient. [Réimpression de l’ École Francaise d’Extrème -Orient (EFEO)], Paris.
Momoki, Shiro 2004, ‘Mandala’ Champa seen from Chinese documents’, paper given at ‘A Symposium on New Scholarship on Champa’, held at Asia Research Institute, National University of Singapore, 5-6 August 2004 (in press).
Nakamura, Rie 1999, Cham in Vietnam: Dynamics of Ethnicity (Ph.D. dissertation), Department of Anthropology, University of Washington.
Nguyễn Hữu, Thông (ed.) 2001, Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam, Nhà Xuất Bản Thuận Hoá, Huế.
Nguyễn Hiền & Võ Văn Chi 1991, Trầm hương, Nhà Xuất Bản Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội.
Nguyễn Thế, Anh 1995, ‘The Vietnamization of the Cham Deity Pô Nagar’, Asia Journal, Vol. 2, No.1, The Center for Area Studies, Seoul National University, Seoul.
Parmentier, Henri 1909, Inventaire descriptif des monuments Cams de l’Annam: vol. I. Description des monuments.
____1918,  vol. II. Étude de l’art Cam, Leroux (Publications de l’Ecole Francaise d’Extrème- Orient 11), Paris.
Sakaya 2003, Lễ hội của người Chăm, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Dân Tộc, Hà Nội.
Schweyer, Anne-Valérie  2004, ‘Po Nagar de Nha Trang’, Aséanie, no. 14, Éditions du Centre d’Anthropologie  Sirindhorn, Décembre 2004, Bangkok.
Southworth, William 2004, ‘The coastal states of Champa’, Ian Glover and Peter Bellwood, (ed.) Southeast Asia from prehistory to history, RoutledgeCurzon, London and New York.
Tạ, Chí Đại Trường 1989, Thần, Người và Đất Việt, Văn Nghệ, California.
Trần, Kỳ Phương 1986, Về ngôi đền chính của nhóm tháp Pô Nagar (Nha Trang- Phú Khánh)’, Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1986, Viện Khảo Cổ Học, Hà Nội.
_____ 1988, Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm, Nhà xuất bản Đà Năng, Đà Nẵng.
_____ 2002, ‘Cultural Resource and Heritage Issues of Historic Champa States, South-Central Vietnam: Champa Origins, Reconfirmed Nomenclatures, and Preservation of Sites’, paper given at the 17th Congress of The Indo-Pacific Prehistory Association, Taipei, 9-15 September 2002 (in press).
_____ 2004, Vestiges of Champa Civilization, Thế Giới Publishers, Hanoi.
_____ 2005, ‘Recherche sur le temple de Mỹ Sơn E1: Nouvelles données sur le réemploi d’éléments de décor architectural dans un temple Hindou du Champa’, Trésors d’art du Vietnam: La sculpture du Champa, V - XV siècles, Musée National des Arts Asiatiques-Guimet, Paris.




* Nội dung chính của bài này là một tham luận đã được Trần Kỳ Phương trình bày tại hội nghị: ‘Old Myths and New Approaches - Interpreting Ancient Religious Sites in Southeast Asia’, tổ chức tại Monash Asia Institute, Monash University, Melbourne, 13-15 July 2005; và, đã được chọn in trong kỷ yếu của Hội Nghị sẽ xuất bản  năm nay, 2012.

[1] Năm 1903, trong cuộc khai quật tại Mỹ Sơn, các nhà khảo cổ của Trường  Viễn Đông Bác Cổ đã tìm thấy tại ngôi đền nhỏ C7, một bộ trang sức bằng vàng, gồm mũ miễn, vòng đeo cổ, vòng đeo tay, cổ tay và cổ chân… Có nhiều khả năng bộ trang sức này được dùng để đeo cho pho tượng Siva đứng của ngôi đền chính C1 (Boisselier 1963: 138-39). Pho tượng Siva Mỹ Sơn C1 hiện được trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chàm-Đà Nẵng [Ký hiệu: 3.3].
[2] Loại y phục này cũng xuất hiện trên bức tym-pan của tháp C1, thể hiện thần Siva múa. Bức phù điêu này mang nhiều đặc điểm nghệ thuật tạc tượng tiêu biểu vào cuối thế kỷ thứ  8, như  y phục, mũ đội, đồ trang sức, các loại nhạc cụ và hoa văn trang trí (Hiện được bảo quản tại tháp Mỹ Sơn D1) (Boisselier 1963: 51-52; Trần 1988: 33).
[3] Những đặc điểm nghệ thuật của pho tượng cho phép nhận định đây là một loại tượng chân dung được lấy mẫu từ một hình nhân bản địa, mà, có khả năng, đó chính là chân dung của một vị vua Chàm đương thời (?).

[4] Pho tượng Siva đứng của ngôi đền Mỹ Sơn A’ 4 hiện được trưng bày tại tháp Mỹ Sơn D1.
[5] Hiện được trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chàm-Đà Nẵng, ký hiệu [45.8] và [16.2].
[6] Pho tượng Siva đứng của ngôi đền Mỹ Sơn E4 đã bị chôn vùi trong lòng của ngôi tháp này từ  khi nó bị đánh bom vào tháng 8 năm 1969.
[7] Bhagavati  là danh hiệu thành kính để gọi nữ thần Parvati, vợ của thần Siva (Lierbert 1986: 36).
[8] Các nhà nghiên cứu thừa nhận rằng việc Ấn Độ hoá Nữ thần Pô Yang Inu Nagar là một kế tục tín ngưỡng lâu đời của cư dân Chăm trước khi tiếp xúc với đạo Hindu (Nguyễn Thế 1995: 55).
[9] Về niên đại của tác phẩm, Boisselier đã từng xếp nó vào phong cách Mỹ Sơn A1, khoảng sau năm 965 một chút, khi ông so sánh những đặc điểm điêu khắc của tác phẩm này với các tác phẩm thuộc phong cách Mỹ Sơn A1, chẳng hạn, hình tượng kala-makara và hoa văn trang trí phía sau ngai của tượng mà Boisselier cho là thuộc Phong cách Khương Mỹ khoảng đầu thế kỷ 10 (Boisselier 1963: 207-09). Tuy nhiên trong một nghiên cứu trước đây, chúng tôi chứng minh rằng tác phẩm này được chế tác dưới triều vua Sri Paramesvaravarman, năm 1050, dựa trên những so sánh tương quan giữa kiến trúc của ngôi đền và tác phẩm điêu khắc; so sánh họa tiết trang trí của các vòm cuốn nhỏ của ngôi đền và hoa văn trang trí phía sau ngai của pho tượng; cũng như  đối chiếu với văn bia của vua Sri Paramesvaravarman khi ông cho dựng lại ngôi đền thờ Nữ thần Pô Yang Inu Nagar (Majumdar 1985: #55, 151-53). Xét về mặt nghệ thuật tạc tượng, những đặc điểm điêu khắc mà Boisselier nêu lên để chứng minh niên đại của tác phẩm này là thuộc phong cách Mỹ Sơn A1, chúng chỉ phản ảnh sự mô phỏng của những yếu tố nghệ thuật thuộc phong cách trước, là một hiện tượng khá phổ biến trong nghệ thuật điêu khắc Chàm. Hình tượng kala-makara rất phổ biến trong các đền-tháp Campà từ thế kỷ 10 trở về sau, chẳng hạn trên phù điêu đế tháp khu Chiên Đàn (in situ, phát hiện năm 1989) thuộc thế kỷ 11-12; hoặc vật trang trí kiến trúc của ngôi đền Mỹ Sơn E4 hay của phế tích Chánh Lộ cũng thuộc thế kỷ 11-12 (Trần 1986: 380 – 82).
[10] Qua truyền thuyết trên, chúng ta có thể thấy rằng, hai tiểu quốc thuộc miền Nam và miền Bắc Champa, có thể, đã từng được hòa hợp bằng hôn nhân nội tại; và cũng có những bất hoà giữa hai miền. Những yếu tố tạo nên câu chuyện như: ‘nữ tính/thiên nữ/miền Nam, nam tính/thái tử/miền Bắc; trầm hương; biển Bắc; hôn nhân nội tại; miền Nam ưu thế ơn miền Bắc (chuyến thuyền của thái tử bị đánh đắm)’, v.v… ít nhiều đã phản ảnh tính chất vũ trụ lưỡng nghi của câu chuyện. Hầu hết các nhà nghiên cứu trước đây đều giải thích danh từ ‘Bắc Hải/ biển Bắc’ trong truyền thuyết này là ám chỉ Trung Hoa. Tuy nhiên, nhờ suy xét trong bối cảnh của hai tiểu quốc của mandala trong vương quốc Champa, mà, chúng tôi có thể lý giải rằng ‘biển Bắc’ chính là ám chỉ tiểu quốc Amaravati (vùng Quảng Nam ngày nay), ở miền Bắc Champa.    
[11] Dựa trên những đặc điểm địa lý và các di tích lịch sử có liên quan đến sự hình thành tiểu quốc Amaravati ở tỉnh Quảng Nam, chúng ta có thể lưu ý như: (1) Núi Răng Mèo (Núi thiêng Mahaparvata, tượng trưng thần Siva), (2) Sông Thu Bồn/(Sông thiêng Mahadani, tượng trưng nữ thần Ganga, vợ thần Siva), (3) Cảng-thị Cửa Đại ở vùng Hội An (Đại Chiêm Hải Khẩu), (4) Kinh thành Trà Kiệu (Simhapura), (5) Thánh địa Mỹ Sơn  (Trần 2002; 2004:3-4). Còn ở tiểu quốc Kauthara, chúng ta có: (1) Núi Đại An (Núi thiêng nơi sinh trưởng của nữ thần Pô Yang Inu Nagar), (2) Sông Cái (Sông thiêng, Sông Mẹ), (3) Cảng-thị ở vùng cửa sông Hà Ra, bên cạnh thánh địa Pô Nagar, (4) Kinh thành (Hiện nay là gọi Thành, cách Nha Trang khoảng 8 km về phía tây-nam , toà thành này được tái xử dụng và trùng tu vào thế kỷ 17-18 dưới thời Chúa Nguyễn), (5) Thánh địa Pô Nagar Nha Trang.
[12] Dựa theo nguyên lý âm- dương, chúng ta có thể luận rằng, quả dừa vì rỗng ruột nên phải thuộc về âm tính/nữ; còn quả cau vì đặc ruột nên phải thuộc về dương tính/nam. Vì vậy, thị tộc Dừa phải thuộc về nữ tính; và thị tộc Cau phải thuộc về nam tính.


Trần Kỳ Phương
Số lần đọc: 1751
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=17853
Ngày đăng: 02.02.2012

Nhãn: , , ,

Bước Đầu Xác Định Danh Hiệu Các Tiểu Quốc Thuộc Miền Bắc Vương Quốc Cổ Chiêm Thành / Champa Khoảng Thế KỶ 11-15

Trần Kỳ Phương


Vùng cực bắc Chiêm Thành / Champa bao gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế hiện nay, nằm giữa Đèo Ngang và đèo Hải Vân. Đây là vùng đất thường xảy ra giao tranh, xung đột giữa nhà Hán và Lâm Ấp trong thời kỳ Bắc thuộc từ thế kỷ thứ 2 đến thứ 9; và sau này, giữa các triều đại Việt Nam và Chiêm Thành/ Champa từ thế kỷ 10-14. Ranh giới cực bắc của Chiêm Thành/ Champa là Đèo Ngang thuộc tỉnh Quảng Bình, khoảng vĩ tuyến 18.

Vào thời Tiền Lê, cuộc xung đột đầu tiên giữa Đại Cồ Việt và Chiêm Thành/ Champa đã xảy ra vào năm 982 khi Lê Hoàn đem quân tấn công vào châu Amaravati ở Quảng Nam hiện nay.

Đến triều Lý, năm 1044, Lý Phật Mã tấn công Chiêm Thành, đánh phá thành Phật Thệ, đã có nhiều ý kiến cho rằng thành Phật Thệ tức là Vijaya hay là thành Chà Bàn ở Bình Định ngày nay (Hoàng Xuân Hãn 1966: 62-66; Đào Duy Anh 1964: 174- 76).

Sau đó là cuộc tấn công của Lý Thường Kiệt năm 1069 vào thành Chà Bàn, bắt được vua Chiêm là Chế Củ; và đây là lần đầu tiên vùng đất miền cực bắc Champa được đề cập đến trong Việt sử với các tên gọi là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chánh. Vùng đất này được sử sách Đại Việt nhắc đến như là sự hiến dâng của Chế Củ cho nhà Lý để đổi lấy tự do. Đó là giai đoạn miền bắc Chiêm Thành/ Champa rơi vào những cuộc tranh chấp triền miên trong nhiều thập niên (Nguyễn Xuân Hoa 2002: 36-37).

Cho tới khoảng năm 1078, một văn bia của Harivarman, tìm thấy tại Mỹ Sơn, đề cập đến sự ổn định và xây dựng lại vương quốc Chiêm Thành / Champa của vị vua này, như sau: “Kẻ thù đã vào vương quốc Champa, tự xưng là những kẻ cầm quyền; đã cướp đi tài sản của hoàng gia và của cải của chư thần; đã phá hủy đền thờ, tu viện, nơi an cư, làng mạc và các tự viện khác cùng với ngựa, voi, trâu bò và mùa màng; đã hủy diệt mọi thứ trong các tỉnh thành của vương quốc Champa; đã cướp đoạt những ngôi đền thờ thần Srisanabhadresvara và tất cả những phẩm vật mà các vị vua trước kia đã phụng hiến cho thần Srisanabhadresvara; đã vơ vét tất cả của cải của thần và cướp đi những nhân sự tùy thuộc ngôi đền, các vũ nữ, nhạc công... những người phục dịch cùng với tài sản trù phú của Srisanabhadresvara; ngôi đền bị cướp sạch và bỏ phế... Rồi đức vua Vijaya Harivarmadeva yan Devatamurti lên ngôi. Ngài đã tiêu diệt hết quân thù, phục hưng lại Nagara Champa, và trùng tu ngôi đền của Srisanabhadresvara... Vương quốc Champa lại trở nên hưng thịnh như xưa...” (Majumdar 1989: III, 160).

Những thông tin trên về triều đại của Harivarman phù hợp với những biến cố được ghi chép trong thư tịch cổ của Việt Nam về Chiêm Thành/ Champa vào giai đoạn này.

Các địa danh của miền cực bắc Chiêm Thành/ Champa nêu trên như Địa Lý, Ma Linh và Bố Chánh xuất hiện trong thời Lý, đã được nhiều sử liệu và sử gia xác định đó là vùng đất ở phía nam Đèo Ngang thuộc tỉnh Quảng Bình cho đến phía bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay, như sau:

1. Địa Lý, đời Lý đổi ra Lâm Bình, đời Trần đổi ra Tân Bình, đời Lê Trung hưng đổi ra Tiên Bình, thuộc tỉnh Quảng Bình, gồm các huyện Lệ Thủy, Phong Phú, Phong Lộc, nay thuộc huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh;
2. Ma Linh, đời Lý đổi ra Minh Linh, đời Minh đổi ra Nam Linh, đời Lê lập lại Minh Linh, thuộc tỉnh Quảng Trị, gồm hai huyện Minh Linh và Gio Linh, nay là huyện Vĩnh Linh và Gio Linh;
3. Bố Chánh, nhà Minh đổi ra Trấn Bình, nhà Lê đổi lại Bố Chánh, thuộc tỉnh Quảng Bình, gồm các huyện Bình Chánh và Tuyên Chánh, nay thuộc các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch và Tuyên Hóa (Hoàng Xuân Hãn 1966: 80-81; Đào Duy Anh 1964: 177).
Đời nhà Trần, khoảng năm 1306, theo Việt sử, vua Chiêm là Chế Mân đã đổi hai châu Ô, Lý hay Ô, Rí để cầu hôn với Huyền Trân Công Chúa (?!), đó là vùng đất được xác định từ phía nam Quảng Trị cho đến phía bắc đèo Hải Vân. Nhà Trần đã gọi khu vực từ cửa Việt vào đến cửa Tư Dung/Tư Hiền là châu Ô và châu Lý; vào năm 1307 thì đổi thành châu Thuận và châu Hóa (Đào Duy Anh 1964: 177).

Về tư liệu Champa, để tìm hiểu các địa danh/danh hiệu của vùng đất này, có một minh văn quan trọng được tìm thấy tại nhóm tháp D của thánh địa Mỹ Sơn, có niên đại khoảng năm 1192, đã ghi chép các địa danh từ Bình Định và Quảng Nam ra đến Quảng Bình bằng tiếng Chăm, như sau: “Jaya Indravarmadeva đã trốn thoát từ người Campuchia và chạy tới Amaravati. Ông đã nổi dậy và  khởi binh trong nhiều huyện thành khác nhau (anekapramana) tại Amaravati, Ulik, Vvyar, Jriy và Traik. Ông đánh chiếm Vijaya. Hoàng tử [Vidyanandana] dẫn đại binh tham chiến, đánh bại [Jaya Indravarmadeva], và buộc ông phải chạy về lại Traik; [Hoàng tử] đã truy nã và giết ông tại Traik. Vì vậy, từ đó Hoàng tử không còn người đối nghịch”. (Majumdar 1985: III, 204; Southworth 2000: 237-38).

Những địa danh như Vijaya, Amaravati, Ulik, Vvyar, Jriy và Traik đã xuất hiện trong văn bia Champa trên đây, mà ta có thể đối sánh chúng với các địa danh đã xuất hiện trong các thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Hoa như sau (tính từ Nam ra Bắc).

1. Vijaya, đã xuất hiện trong một bia ký của Jaya Harivarmadeva tìm thấy tại Po Nagar Nha Trang khoảng năm 1160 và thường được đề cập đến trong thư tịch cổ Việt Nam với danh hiệu là Trà Bàn/Chà Bàn hay Đồ Bàn hoặc Phật Thệ  (Hoàng Xuân Hãn 1966: 62-66; Đào Duy Anh 1964: 174-76) là địa vực nằm trong tỉnh Bình Định ngày nay. Đương thời, tiểu quốc này được thư tịch Trung Hoa gọi là Tân Châu để phân biệt với Cựu Châu hay Amaravati ở vùng Quảng Nam ngày nay(1). Tiểu quốc Vijaya đã phát triển liên tục từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15, được minh chứng bởi các di tích kiến trúc to lớn hiện vẫn tồn tại như Tháp Bạc (Tk 11), Bình Lâm (Tk 11), Dương Long (Tk 12-13), Hưng Thạnh (Tk 12-13), Cánh Tiên (Tk 13-14), Thốc Lốc (Tk 14-15), Thủ Thiện (Tk 14-15), tọa lạc dọc theo sông Côn; còn đầm Thị Nại [Sri Boney] chính là cảng-thị của tiểu vương quốc này.

2. Amaravati, xuất hiện trong văn bia của Java Harivarmadeva tại Mỹ Sơn khoảng năm 1157 và tại Po Nagar Nha Trang năm 1160 (Southworth 2000: 237-38), là khu vực hạ lưu sông Thu Bồn bao gồm Mỹ Sơn là thánh địa, Trà Kiệu là hoàng thành và Đại Chiêm Hải Khẩu là cảng-thị. Danh hiệu này được phiên âm là A-mu-la-bu [A-mộc-lạt-bổ] trong Minh sử khoảng năm 1481-1482 (Wade 2003: 14)(2).

3. Ulik, đã được nhắc đến trong sử sách Việt Nam dưới tên gọi châu Ô và châu Lý hoặc Rí từ đời Trần, năm 1307 [Ulik > Ô-Lý/Ô-Rí]. Vùng đất này được xem là lễ vật của Chế Mân dâng cho vua nhà Trần để cầu hôn với công chúa Huyền Trân, nằm ở phía bắc đèo Hải Vân(3), nay thuộc tỉnh Thừa Thiên- Huế và phía nam tỉnh Quảng Trị, đặc biệt khu vực xung quanh Huế với di tích quan trọng là thành Lồi tọa lạc bên dòng sông Hương cùng với các dòng sông khác như Ô Lâu, sông Bồ chảy vào đầm phá Tam Giang, có cửa Tư Hiền/Tư Dung làm cảng-thị với tháp Linh Thái - nơi thờ nữ thần Pô Nagar/Po Yang Inu Nagar tương tự thánh địa Pô Nagar Nha Trang của tiểu quốc Kauthara (Trần Kỳ Phương 2003: 113-14).

4. Vvyar, đã được đề cập đến trong thư tịch Việt Nam như trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, có tên là Việt Môn (Hồng Đức bản đồ 1964: 48), chính là cửa Việt, nay thuộc huyện Triệu Phong của tỉnh Quảng Trị [Vvyar > Việt]. Dọc theo sông Thạch Hãn có nhiều di tích nghệ thuật quan trọng đã được phát hiện ở Hà Trung, Trà Liên, Thạch Hãn, với niên đại từ thế kỷ 9 đến 11/12; và nhiều địa danh có âm cổ của từ Việt như Gio Việt, Việt An, v.v... Cửa Việt là cửa biển lớn nhất của Quảng Trị và nó cũng là cửa biển quan trọng nhất thời bấy giờ của khu vực giữa Đèo Ngang và đèo Hải Vân, và có địa thế tương tự cửa Đại Chiêm ở vùng Hội An và hạ lưu sông Thu Bồn của châu Amaravati trong tỉnh Quảng Nam.

5. Jriy, đã được nhắc đến với tên là Di Luân Môn trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư khoảng năm 1630-53; còn trong Bình Nam đồ [Hồng Đức bản đồ] khoảng năm 1653-90 thì gọi là Nhật Lệ Hải Môn Thâm (Hồng Đức bản đồ 1964: 48, 141), chính là cửa Nhật Lệ thuộc thị xã Đồng Hới hiện nay. Tên gọi Jriy có thể đã được chuyển âm thành Địa Lý (?) vào thời Lý (năm 1064). Giữa thế kỷ 16, khoảng năm 1553-55, trong sách Ô Châu cận lục có nhắc đến nhiều địa danh có âm tương tự đã tồn tại ở vùng này, chẳng hạn, sông Thổ Rí chảy vào cửa Nhật Lệ (Dương Văn An 2001: 28). Sự biến âm của địa danh này có thể đã được diễn ra như sau: Jriy > Rí/Di > Lý > Lệ(4). Về vùng phía tây cửa Nhật Lệ có những di tích Phật giáo Champa đáng lưu ý ở Đại Hữu, Mỹ Đức, Thu Thư thuộc thế kỷ 9-10; còn về vùng thượng lưu của sông Lý Hòa thì có hang động Phong Nha với một số dấu tích Champa đã được phát hiện.

6. Traik, địa danh này được nhắc đến dưới thời Lý là Bố Chánh bao gồm các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch tọa lạc ở vùng cửa sông Gianh, có thể từ Gianh là một biến âm của từ Trạch [Traik > Trạch > Gianh](5). Đây là vùng đất cực bắc của Champa giáp giới với Đại Việt, nằm ở phía nam Đèo Ngang, cho nên theo minh văn Chăm nêu trên, Jaya Indravarmadeva mới bị Hoàng tử Vidyanandana giết tại đây. Vùng này cũng có các di tích nghệ thuật Champa quan trọng như Lâm Ấp Phế Lũy, Hoàn Vương Phế Lũy, và một minh văn Phật giáo Champa tìm thấy ở Ròn thuộc thế kỷ 9-10(6).

Dựa theo quan niệm Hindu giáo về sự hình thành các tiểu quốc trong mandala Champa, mỗi tiểu quốc được hình thành dựa vào một ngọn núi thiêng, tượng trưng cho thần Siva; và một dòng sông thiêng tượng trưng cho nữ thần Ganga, vợ thần Siva. Dọc theo dòng sông thiêng này mỗi tiểu quốc thiết lập ba trung tâm trọng yếu, đó là: (1) một trung tâm thương mại hay cảng-thị tọa lạc ở một cửa sông; (2) một trung tâm quyền lực của hoàng gia hay là hoàng thành; (3) một trung tâm tôn giáo của hoàng gia hay là thánh đô.

Vào khoảng thế kỷ thứ 7, căn cứ vào những yếu tố địa dư và những di tích lịch sử liên quan đến châu Amaravati của Champa ở địa bàn tỉnh Quảng Nam ngày nay, ta có thể tìm thấy mô hình về sự hình thành của một tiểu quốc được bộc lộ như sau.
-  Ngọn núi thiêng là núi Mahaparvata/Đại Sơn Thần hay núi Răng Mèo;
-  Dòng sông thiêng Mahanadi/ Ganga hay sông Thu Bồn(7);
-  Cửa sông hay cảng-thị là Đại Chiêm Hải Khẩu hoặc Cửa Đại, tọa lạc ở vùng Hội An;
-  Hoàng thành là Simhapura/Thành phố Sư tử ở vùng Trà Kiệu;
-  Thánh đô hoàng gia là Srisanabhadresvara hay Mỹ Sơn.

Những tỉnh thành (tiểu quốc?) có danh hiệu tiếng Chăm nêu trên của miền bắc Champa đều gắn liền với một cửa biển, nó bộc lộ rằng mỗi tiểu vương quốc thuộc mandala Champa(8) được thiết lập dựa vào một cảng-thị là trung tâm hải thương quốc tế; điều đó phù hợp với mô hình “riverine exchange network” (mạng lưới trao đổi ven sông) của Bennet Bronson nêu ra về sự trao đổi nội và ngoại thương dựa vào những dòng sông chính trong khu vực cùng với sự trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi cũng như giữa những tiểu quốc với nhau, mà địa lý của vương quốc Chiêm Thành/ Champa đã đặc biệt thích ứng(9).

Áp dụng mô hình này để tìm hiểu địa-lịch sử của vùng Quảng Nam ngày nay, hay là Amaravati của Champa xưa kia, ta thấy rằng sông Thu Bồn và những chi lưu của nó đã đóng một vai trò thiết yếu trong việc trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi(10). Dọc theo dòng sông lớn này có nhiều khu chợ sầm uất ở miền trung du như Trung Phước, Ái Nghĩa, Túy Loan, v.v... giữ vai trò trung chuyển hàng hóa giữa miền ngược, nơi có những nhóm sắc tộc nói tiếng Môn-Khmer(11) sinh sống và cung cấp các loại lâm sản quý, với miền xuôi(12); nguồn lâm sản này được tập trung vào một cảng-thị quan trọng ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn nơi giữ vai trò của một trung tâm ngoại thương mà diện mạo của nó có thể hình dung được qua sự phồn thịnh của cảng-thị Hội An nổi tiếng của Đàng Trong vào những thế kỷ 17-18. Sự phồn vinh của cảng-thị Hội An đương thời chính là sự tái hiện của một cảng-thị Champa trước kia (Trần Kỳ Phương 2010: 207-15)(13).


CHÚ THÍCH

  1. Tiểu quốc Vijaya của Champa vào đầu thế kỷ 15 (1436) đã được mô tả bởi một học giả Trung Hoa tên là Fei Hsin/Phí Tín, người đã tháp tùng đoàn hải hành của Trịnh Hòa tại Đông Nam Á, như sau: “... xứ này ở dọc theo duyên hải, và có một hải cảng gọi là Tân Châu [Quy Nhơn]. Về phía tây là Giao Chỉ, và Trung Hoa nối liền về phía bắc. Khi các chuyến tàu chở hàng của ngoại quốc cập đến xứ này, để đón các sứ thần, vị thủ lĩnh đội một cái mão có ba tầng bằng vàng, mặc y phục thêu thùa, đeo vòng vàng trên ngực và cánh tay, đi giày bằng vỏ đồi mồi và đeo một sợi đai có nạm tám viên ngọc vuông. Ngài trông như  một vị thần hộ pháp lộng lẫy. Ngài cỡi một con voi, được hơn năm trăm thổ binh hộ tống trước sau, có người mang gươm bén và giáo ngắn, có người mang khiên giáp sáng ngời, họ đánh trống và thổi tù và bằng vỏ dừa, ngài cùng những cận thần khác đi ra ngoại thành để đón nhận phẩm vật của vua ban. Vị thủ lĩnh xuống voi chắp tay và cúi đầu cảm tạ ơn vua đã ban phẩm vật và xin dâng những cống phẩm của địa phương. Xứ này có nhiều voi và tê ngưu to lớn, vì vậy ngà voi và sừng tê được bán tới những xứ khác với sản lượng lớn” (Su Chung-Jen/Tô Tông Nhân 1967: 198-211). Qua mô tả trên chúng ta có thể phân tích rằng, người cai quản cảng-thị Tân Châu/Vijaya là một thủ lĩnh/lãnh chúa; còn hoàng thành của nhà vua phải là một nơi khác cho nên vị thủ lĩnh của cảng-thị mới phải đi ra ngoại thành để dâng và nhận phẩm vật của vua ban. Cảng-thị của Tân Châu/Vijaya đương thời tọa lạc tại đầm Thị Nại về phía đông-bắc thành phố Quy Nhơn ngày nay. Quanh đầm Thị Nại có thành Thị Nại (thuộc huyện Tuy Phước), có thể đó là nơi đồn trú của vị thủ lĩnh/lãnh chúa của cảng-thị; về phía tây có thành Cha (thuộc huyện An Nhơn), có thể là thành Chà Bàn sau này (?), đó là nơi đóng đô của nhà vua (thành Thị Nại và thành Cha chỉ cách nhau chừng 7-8km theo đường chim bay). Các kiến trúc tôn giáo của hoàng gia là các nhóm tháp Bình Lâm, Bánh Ít  (thế kỷ 11-12), Dương Long, Hưng Thạnh (thế kỷ 12-13) và các tháp Cánh Tiên, Thủ Thiện, Thốc Lốc (thế kỷ 14-15). Trong một cấu trúc tương tự về các cảng-thị của Champa, chúng ta có thể so sánh với một phức hệ khác dựa theo sông Trà Khúc của tỉnh Quảng Ngãi nơi có cửa Sa Kỳ /Cửa Đại với thành Cổ Lũy (nơi đồn trú của thủ lĩnh cảng thị) và thành Châu Sa (nơi đóng đô của vua và hoàng tộc) được thiết lập ở hai bên bờ sông. Chúng tôi mong sẽ có dịp trở lại chủ đề này trong một chuyên khảo khác.
(2)    Sau khi Lê Thánh Tông đánh chiếm thành Chà Bàn năm 1471, hoàng tộc Champa của Vijaya phải sống lưu vong ở Malacca; năm 1481/82 một sứ thần được vua Cổ Lai, một vị vua Champa lưu vong, cử đến triều đình nhà Minh dâng sớ nhờ giúp đỡ để lấy lại lãnh thổ đã mất vào tay Đại Việt, trong sớ kể rằng lãnh thổ Champa bao gồm vùng đất như sau: “Đất nước của chúng tôi bao gồm 27 xứ, 4 phủ, 1 châu, và 22 huyện. Lãnh thổ này trải dài về phía đông giáp biển, phía nam giáp Chân Lạp, tây giáp núi rừng của người Lê [Lê Nhân sơn], và bắc giáp A-mu-la-bu”. (Wade 2003: 14).     
(3) Hiện nay, có một làng ở phía nam chân đèo Hải Vân tên là Nam Ô thuộc thành phố Đà Nẵng, địa danh này góp thêm chứng cứ cho việc xác định châu Ô là ở phía bắc đèo Hải Vân.
(4) Cứ theo Hồng Đức bản đồ, 1653-90, (sđd, trang 48) thì thứ tự các cửa biển nay thuộc tỉnh Quảng Bình, tính từ bắc vào nam, như sau: Thuận Cô Môn nay là cửa Ròn; Cương Giản Môn nay là cửa Gianh; Di Luân Môn nay là cửa Lý Hòa (?); An Niên Môn nay là cửa Doanh; Nhật Lệ Môn nay là cửa Nhật Lệ (Tập bản đồ hành chính Việt Nam, Nxb Bản đồ, 2003, tr. 38). Như vậy, cũng có khả năng Jriy là Di Luân Môn hay là cửa Lý Hòa [Jriy>Di>Lý] (?). Nhưng theo Đồng Khánh địa dư chí, 1886-87, thì Di Luân Môn chính là cửa Ròn (Đồng Khánh địa dư chí 2003: 1355); còn sách Đại Việt địa dư toàn biên, thời Minh Mạng, của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu thì gọi cửa Ròn là đồn biển Tấn và cho biết trước đó cửa này gọi là cửa biển Di Luân (Phương Đình Nguyễn Văn Siêu 1997: 246). Theo nhà địa lý học Lê Bá Thảo đương thời cửa Nhật Lệ là một cửa biển lớn (Lê Bá Thảo 2003: 211-15). Trong các cửa biển tại Quảng Bình, cửa Nhật Lệ là cửa quan trọng nhất từ thời Lê, nhưng ngoài ra, cửa Lý Hòa cũng là một thương cảng lớn (Lương Duy Tâm 1998). Tóm lại, hiện thời, chúng tôi chưa thể xác định chính xác địa danh của Di Luân Môn, nhưng đại thể, địa danh Jriy của Champa nằm trong địa vực huyện Quảng Trạch, Bố Trạch và Quảng Ninh hiện nay, nó có thể đã được phiên âm thành Di hoặc Lý hoặc Lệ (?).
(5)    Vùng đất giữa Đèo Ngang và đèo Hải Vân đã được các tác giả người Pháp định danh là Indrapura, về danh hiệu này đã được Southworth phân tích và phủ nhận trong một chuyên khảo về địa-chính trị Champa (Quach-Langlet 1988: 28-29; Southworth 2000: 237-40; Trần Kỳ Phương 2002: 63-74, chú 10).
(6) Ngoài ra, có thể còn nhiều cửa biển của những dòng sông chính ở miền Trung có khả năng tồn tại những tiểu quốc độc lập khác mà chúng ta chưa thể xác định được danh hiệu của chúng, mặc dầu những tiểu quốc này đã được đề cập đến trong các thư tịch cổ của Trung Hoa khi liên hệ đến Champa với danh xưng là “quốc”, chẳng hạn: Môn Độc Quốc, Cổ Đan Quốc, v.v... Những tiểu quốc này được thiết lập trên những cửa biển sau: Cửa Hàn trên sông Hàn thuộc thành phố Đà Nẵng; Cửa Kỳ Hà trên sông Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam; Cửa Dung Quất trên sông Trà Bồng và Cửa Sa Kỳ/Cửa Đại trên sông Trà Khúc thuộc tỉnh Quảng Ngãi; Cửa Tuy Hòa trên sông Ba hay sông Đà Rằng thuộc tỉnh Phú Yên; Cửa Phan Rí trên sông Lũy và cửa Phan Thiết trên sông Cà Ty/Cái thuộc tỉnh Bình Thuận (Southworth 2000: 237-244; Trần Kỳ Phương 2002: 64-65). Dọc theo những dòng sông này đều có những nhóm đền-tháp quan trọng như Khương Mỹ, Phú Hưng (Tam Kỳ, Quảng Nam), Chánh Lộ, thành Châu Sa, thành Cổ Lũy (Quảng Ngãi), tháp Nhạn, thành Hồ (Phú Yên), Pô Đam, Phú Hài (Bình Thuận), v.v.. là chứng cứ về sự tồn tại của những di tích hoàng gia Champa tại những tiểu quốc đương thời.
(7)     Tên của ngọn núi thiêng và dòng sông thiêng này đã xuất hiện trong những minh văn Champa được phát hiện tại Mỹ Sơn từ cuối thế kỷ thứ 4 cho đến thứ 7 (Majumdar 1985: III, 4-8; 21-26).
(8)  Thuật ngữ mandala (circles of kings) được các nhà nghiên cứu dùng để diễn tả một hệ thống chính trị-kinh tế đã được phát hiện tại hầu hết các quốc gia cổ ở Đông Nam Á. Mandala là mô hình của một vương quốc bao gồm nhiều tiểu vương quốc hoặc lãnh chúa. Trong  mỗi  tiểu quốc của mandala có một vị tiểu vương thường được thần linh hóa và tự xưng là lãnh đạo của các thủ lĩnh khác, mà trên lý thuyết, đó là những thuộc hạ và chư hầu của họ. Mỗi tiểu vương trong mandala là người duy nhất có đặc quyền được nhận cống phẩm mang đến bởi các sứ thần và là người có uy quyền tối cao lãnh đạo quân đội. Cũng thường xảy ra tình trạng là một vài vị thủ lĩnh trong mandala có quyền từ chối vai trò chư hầu của họ và cố xây dựng cho riêng họ một hệ thống chư hầu mỗi khi họ có cơ hội nổi dậy. Để ngăn ngừa tình trạng này, tiểu vương trong mandala ứng xử với các chư hầu bằng cách không can thiệp vào nội bộ của những thủ lĩnh địa phương để giữ một khoảng cách tương đối với thủ phủ, và tạo những mối quan hệ hôn nhân hoặc mời họ tham gia vào ứng thí đại biểu của hoàng gia, v.v... (Wolters 1999: 27-40; Nakamura 1999: 60).
(9)     Nhiều nhà nghiên cứu đã giải thích hệ thống chính trị-kinh tế của vương quốc Champa theo một mô hình được gọi là “hệ thống trao đổi ven sông/riverine exchange network”. Theo mô hình này, “hệ thống trao đổi ven sông” có một vùng duyên hải để làm cơ sở cho một trung tâm thương mại thường tọa lạc ở một cửa sông. Đây cũng là trung tâm giao dịch quốc tế. Ngoài ra, cũng có những trung tâm ở thượng nguồn, đó là những điểm tập trung ban đầu của các nguồn hàng có gốc từ những vùng xa sông nước. Những nguồn hàng này được sản xuất ở các vùng không họp chợ bởi các cư dân sống trong các bản làng ở miền thượng du hoặc thượng nguồn. Nguồn hàng này, chủ yếu là lâm sản, được tập trung trao đổi ở các chợ phiên vùng trung du, rồi vận chuyển về các khu chợ sầm uất hơn ở vùng hạ lưu gần cảng-thi, sau đó lại được tập trung về cho các thương nhân cư trú ở cảng-thị để xuất khẩu. Mỗi tiểu quốc trong mandala có riêng một “hệ thống trao đổi ven sông” như vậy (Bronson 1977: 39-52; Hall: 1985: 1-25; Nakamura 1999: 60). Dựa vào nguồn hàng hoá biết được tại cảng-thị Hội An, chúng ta thấy rằng hoàng hoá miền ngược bao gồm tất cả các mặt hàng lâm sản quý hiếm như: trầm hương, sừng tê ngưu, ngà voi, quế, gỗ quý, v.v…; và các mặt hàng ở vùng hạ lưu thương bao gồm các mặt hàng nhập cảng như: gốm sứ, đồ đồng, vải vóc …của Trung Hoa, hoặc mã nảo, đá quý của Ấn Độ, v.v… (Trần Kỳ Phương 2002; 2004).
(10)    Về việc áp dụng mô hình “hệ thống trao đổi ven sông” để tìm hiểu lịch sử và văn hóa miền Trung, chúng tôi đã bước đầu công bố trong một tham luận tại hội thảo khoa học về “Văn hóa làng các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam” do Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật miền Trung Tây Nguyên tại thành phố Huế tổ chức tại Huế ngày 28 tháng 5 năm 2004 (Trần Kỳ Phương 2004).
(11)    Trong các tộc người nói tiếng Môn-Khmer ở miền tây Quảng Nam, người Katu là sắc tộc đông nhất, sống phân bố dọc theo các dòng sông lớn của Quảng Nam như sông Thu Bồn, sông Vu Gia, sông Côn, sông Túy Loan, v.v... Người Katu hiện nay có khoảng 50.000 người, sống tập trung tại 2 huyện miền núi Tây Giang và Đông Giang (trước đây là huyện Hiên và Giằng) tỉnh Quảng Nam, ngoài ra còn có một bộ phận sống ở huyện Nam Đông phía bắc đèo Hải Vân thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Về sinh hoạt kinh tế-văn hóa-xã hội của người Katu, trong đó có mối quan hệ với thương nhân miền xuôi mà người Katu gọi là “các-lái” hay “thương-lái”, đã được tường thuật bởi Le Pichon vào năm 1938 trong một chuyên khảo về người Katu ở Quảng Nam, và của cụ Quách Xân, một chiến sĩ cách mạng lão thành đã sống với người Katu nhiều năm tại các vùng rừng núi phía tây tỉnh Quảng Nam (Quách Xân 2000; Le Pichon  1938). 
(12)           Trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi ở vùng Quảng Nam đã được phản ảnh qua câu ca dao: “Ai về nhắn với nậu/bạn nguồn, Măng le/Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên” (Trần Quốc Vượng 1998: 24).
(13)  Trong một chuyên khảo dựa vào luận án tiến sĩ của mình, Wheeler cũng đã phân tích và chứng minh rằng cảng-thị Hội An trong các thế kỷ 17-18 đã kế thừa những thành quả về sự thiết lập các mối quan hệ nội và ngoại thương của Champa trong các thế kỷ trước đó (Wheeler 2003a; 2003b). Mô hình trên cũng có thể được áp dụng để tìm hiểu vai trò kinh tế của các cảng -thị khác của Chiêm Thành dựa vào các cửa sông ở miền bắc vương quốc như sông Thạch Hãn, sông Gianh, v.v…

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.   Bronson Bennet, 1977. “Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes Toward a Functional Model of the Coastal State in Southeast Asia”, Economic Exchange and Social Interaction in Southeast Asia: Perspectives from Prehistory, History and Ethnography [Hutterer, Karl L. ed.]: 39-52. Ann Arbor: Center for South and Southeast Asia Studies, The University of Michigan.
2.   Dương Văn An, 2000. Ô Châu cận lục  [Tân dịch hiệu chú] (Hiệu đính -dịch chú: Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc). Huế: Nxb Thuận Hóa.
3.   Đào Duy Anh, 1964. Đất nước Việt Nam qua các đời. Hà Nội: Nxb Khoa học.
4.   Đồng Khánh địa dư chí (CD-ROM), 2002. Viện Nghiên cứu Hán Nôm - École pratique des Hautes Etudes - École Francaise d’Extrême-Orient.
5.   Hagesteijn Renée, 1989. Circles of kings: political dynamics in early Continental Southeast Asia. Dordrecht-Holland/Providence-USA: Foris Publications.
6.   Hall Kenneth R., 1985. Maritime Trade and Early State Development in Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.
7.   Hoàng Xuân Hãn, 1965. Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao triều Lý (tái bản). Sài Gòn, Ban Tu thư Viện Đại học Vạn Hạnh.
8.   Hồng Đức bản đồ, 1962. Tủ sách Viện Khảo cổ, số III, Sài Gòn: Bộ Quốc gia Giáo dục.
9.   Le Pichon J., 1938. “Les Chasseurs de Sang”, Bulletin des Amis du Vieux Hué”, 1938, No. 4: 357-409. Huế: Association des Amis du Vieux Hué [CD-ROM, Ecole Francaise d’Extrême Orient - Université de Hue, Vietnam, Festival Huế 2000].
10.  Lê Bá Thảo, 2003. Thiên nhiên Việt Nam (tái bản). Hà Nội: Nxb Giáo dục.
11.  Lương Duy Tâm, 1998. Địa lý-Lịch sử Quảng Bình. Bảo tàng tổng hợp Quảng Bình.
12.  Majumdar R. C., 1985. Champa: history and culture of an Indian colonial kingdom in the Far East 2th -16th centuries AD (Reprinted). Dehli: Gian Publ. House.
13.  Maspéro George, 1988. Le Royaume de Champà. Paris: Ecole Francaise d’Extrême-Orient. [Réimpression de l’École Francaise d’Extrême-Orient (EFEO)]
14.  Nakamura Rie, 1999. Cham in Vietnam: Dynamics of Ethnicity [Ph.D. dissertation]. University Washington: Department of Anthropology.
15. Nhà xuất bản Bản đồ, 2003. Tập bản đồ hành chính Việt Nam.
16.  Nguyễn Xuân Hoa, 2001. “Thừa Thiên Huế dưới thời Lâm Ấp-Chămpa”, Nghiên cứu Huế, tập 3: 28-38. Huế: Trung tâm Nghiên Cứu Huế.
17.  Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, 1997. Đại Việt địa dư toàn biên. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Sử học. Hà Nội: Viện Sử học và Nxb Văn hóa.
18.  Quach-Langlet T., 1988. “Le cadre géographique de l’ancien Campa”, Actes du seminaire sur le Campa, organisé à l’Université de Copenhague, le 23 Mai 1987: 28-48. Paris: Travaux du Centre d’Histoire et Civilisations de la Peninsule Indochinoise.
19.  Quách Xân, 2000. “Giặc mùa”, Ngok Linh [Chuyên đề nghiên cứu, sáng tác về miền núi và Tây Nguyên], số 1: 71-106. Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Đà Nẵng.
20.  Southworth, William, 2002. “Notes on the political geography of Campa in central Vietnam during the late 8th and early 9th centuries A.D.” [Proceedings of the 7th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Berlin, 31 August-4 September 1998], Southeast Asian Archaeology 1998: 237-244. Hull: Center for Southeast Asian Studies, University of Hull, Great Britain.

21.  Trần Kỳ Phương
- 2002. “Góp phần tìm hiểu về nền văn minh của vương quốc cổ Champa tại miền Trung Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (37): 63-74; số 4 (38): 71-78. Huế: Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên Huế.
- 2003a. “Di tích mỹ thuật Champa ở Thừa Thiên Huế”, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4-5 (42-43): 110-20. Huế: Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế.
- 2003b. “The geography of the ancient Champa kingdom in Central Vietnam”. Paper given at Pacific Neighborhood Consortium Annual Conference 2003, held on November 7-9, 2003 at Princess Maha Chakri Sirindhorn Anthropology Center, Bangkok, Thailand.
- 2004. “Bước đầu tìm hiểu về địa-lịch sử của vương quốc Chiêm Thành (Champa) ở miền Trung Việt Nam: Với sự tham chiếu đặc biệt vào “hệ thống trao đổi ven sông” của lưu vực sông Thu Bồn ở Quảng Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Văn hóa làng các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam”. Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật Miền Trung tại thành phố Huế, 5-2004.
- 2010. ‘Interactions between uplands and lowlands through the ‘riverine exchange network’     of central Vietnam- A case study in the Thu Bon river valley’, In 50 years of archaeology in Southeast Asia: Essays in honour of Ian Glover. Bérénice Bellina, Elisabeth A. Bacus, Thomas Oliver Pryce & Jan Wisseman Christie (eds.). Bangkok: River Books, pp.207-15.

22.  Trần Quốc Vượng, 1998. “Để  tìm hiểu thêm về  xứ Quảng”, Di tích Quảng Nam: 24. Quảng Nam: Sở Văn hóa -Thông tin Quảng Nam.
23.  Wade G., 2003. “The Ming shi Account of Champa”. Singapore: Asia Research Institute, Working Paper Series, No. 3: 14, <www.ari.nus.edu.sg/pub/wps.htm>.
24.  Wheeler Charles,
- 2003a. “One Region, Two Histories: Cham Precedents in the History of the Hoi An Region” (forthcoming), For Viet Nam: Borderless Histories, ed. Nhung Tran & Anthony Reid (Madison: University of Wisconsin Press).
- 2003b. “Environment, Economies, And Social Organization in the Development of a Trade Regime: Hoi An’s Trading World, c. 1550-1830”. Paper given at Pacific Neighborhood Consortium Annual Conference 2003, held on November 7-9, 2003 at Princess Maha Chakri Sirindhorn Anthropology Center, Bangkok, Thailand.
25.  Wolters O. W., 2000. History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives (Revised Edition). Singapore: Institute of Southeast Asia Studies.

Trần Kỳ Phương
Số lần đọc: 962
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=17802
Ngày đăng: 26.01.2012

Nhãn: , ,

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2017

Tìm hiểu kỹ thuật xây dựng tháp cổ Chăm Pa tại miền trung Việt Nam

Ðối với các tháp Chăm, kỹ thuật xây dựng tháp thực chất là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ của công nghệ xây dựng và điêu khắc. Mà biểu hiện vật chất của nó chính là tỷ lệ kiến trúc và nghệ thuật kết hợp kiến trúc với các dạng điêu khắc trang trí, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng không mạch vữa. Qua đó nó thể hiện giá trị phi vật thể là nội dung thờ tự, tâm linh và cao hơn là ý nghĩa triết học của các đền tháp Chăm.

Theo đó, việc nghiên cứu xác định được đúng kỹ thuật xây dựng tháp Chăm của người Chăm xưa sẽ giúp cho việc trùng tu được chuẩn xác, đưa ra được những phương tiện và phương pháp để bảo tồn trùng tu được tối đa các giá trị chân xác của di tích. Phương pháp tu bổ đó vừa đảm bảo được tính nguyên gốc, chính xác, phù hợp, cụ thể cho mỗi tháp và từng bộ phận chi tiết của các tháp Chăm. Ðồng thời qua đó có thể mở ra hướng trong nghiên cứu, tìm ra phương pháp xây mới có nhiều ưu điểm hơn phục vụ cho ngành xây dựng, thay thế cho lối xây bằng vữa xi măng + cát hoặc vôi + cát  như hiện nay cũng như lý giải những ẩn số xung quanh các vấn đề như kỹ thuật, triết học, tâm linh... của người Chăm xưa. Ðiều này nhằm góp phần cho công cuộc trùng tu và phát huy các giá trị tại Mỹ Sơn nói riêng và các tháp có giá trị tại miền Trung nói chung.

Như chúng ta đã biết, trong công tác trùng tu, đối với các tháp Chăm, yêu cầu bắt buộc của việc trùng tu ngoài nhiệm vụ hàng đầu là tu sửa  khẩn cấp để bảo tồn kịp thời di tích và giá trị lịch sử của công trình cổ, còn đòi hỏi phải xây gạch theo kiểu cổ truyền của người Chăm xưa, tức là kỹ thuật thế nào đó để kết dính các viên gạch lại với nhau. Ngoài yêu cầu của độ bền vững ra, không còn để lộ khe hở, cũng như không để lộ cho thấy mạch hồ vữa của chất kết dinh (nếu có). Như thế, ngôi đền tháp sau khi phục chế mới không có sự khác biệt và giữ được nét đặc thù của tháp Chăm, đồng thời giữ được nét thẩm mỹ của màu sắc và hoa văn điêu khắc trên mặt tường ngôi tháp. Trên cơ sở đó, nhiều giả thuyết về kỹ thuật xây cất các ngôi tháp cổ của người Chăm xưa đã được đưa ra. Tuy nhiên một số luận cứ trong các giả thiết đó vẫn còn chưa rõ ràng và còn nhiều tranh cãi, mâu thuẫn làm vấn đề chưa ngã ngũ và đi đến tiếng nói chung. Vì vậy, qua nghiên cứu phân tích các thành phần hóa lý cũng như dấu tích còn lại trên bề mặt các Tháp cổ, cá nhân tôi và Cha là nhà nghiên cứu văn hóa Chămpa - Hồ Xuân Em (đã mất) đưa ra một giả thuyết riêng. Giả thuyết có thể còn nhiều vấn đề cần tranh cãi và kiểm chứng, nhưng tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra để cùng trao đổi nhằm góp phần vào tiếng nói chung trong công việc nghiên cứu và trùng tu các tháp.

Người Chăm xưa xây Tháp bằng gạch mộc chưa nung, tức là dùng những viên gạch còn sống, trong đó có chứa một ít cát (khoảng 10% - đây có thể là do nguồn đất sét làm gạch đặc thù hoặc cũng có thể do người ta pha vào khi làm gạch) nhúng nước rồi xát và ép chặt vào nhau để kết dính (điều này đã tạo nên một lớp vữa “giả tạo”. Thành ra cách xây này không vữa mà như là có vữa) rồi nung toàn khối. Trong đó, người Chăm xưa đã nghĩ tới phương pháp xây tháp theo nguyên tắc tạo ra một tổng thể đồng chất với bề dày tường lớn để có được lực liên kết bền vững nhất, đồng thời dễ dàng tạo ra được những tác phẩm điêu khắc có đường nét mỹ thuật cao. Nhưng vì đất sét là vật liệu lâu khô, lại phải nung qua lửa, đòi hỏi độ ẩm phải còn 20% trước khi nung nên người Chăm không thể đổ đất sét lỏng như hiện nay ta đổ bêtông mà trước tiên phải làm nên những viên gạch mộc, phơi qua vài ngày để gạch se lại, sau đó nhúng nước, xát và ép để viên này dính sát với viên kia, chồng lên và so le mí với nhau. Khi ngôi tháp xây xong thì toàn bộ ngôi tháp, nền và móng đã trở thành một tổng thể đất sét đồng chất (ngoại trừ một ít lanh tô hoặc trụ đá phải dùng trong kỹ thuật xây và có thể được xử dụng để gia cường sau khi xây). Tổng thể đất sét này được nung chín, tất nhiên sẽ có độ bền vững hơn là xây bằng gạch đã nung trước với hồ vữa, là 2 chất liệu khác nhau. Và cách xây và nung tháp của người Chiêm Thành thì bắt buộc phải “xây từ dưới lên trên và nung từ trên xuống dưới” nhằm tránh cho tháp khỏi bị đổ vì xây bằng gạch mộc.


Phần đỉnh tháp luôn luôn được xây nhỏ hơn phần đế và thân tháp để trọng tâm khó đổ ra ngoài. Vì vậy người Chăm xưa phải xây tường tháp rất dày từ 1m đến gần 2m. Cùng với việc xây từng đoạn xong để trong một ít thời gian cho gạch se cứng lại thì những yếu tố này góp phần làm giảm tải trọng bản thân của tháp lên các viên gạch. Xây tháp tới đâu thì đổ đầy đất ở trong lẫn ngoài lên tới đó, ngang với mặt tường đang xây, ém đất thật chặt để giữ tháp cho vững đồng thời để người thợ có điều kiện làm việc dễ dàng trong lúc xây và chạm khắc. Ðó cũng chính là một loại, vừa giàn giáo, vừa cốp pha (Scaffold and framework) trong ngành xây dựng, nhưng ngày nay thì người ta làm bằng gỗ và sắt. Sau đó thực hiện việc điêu khắc, trang trí trên gạch còn mềm ướt của Tháp. Xây tới đâu thì chạm khắc, trang trí tới đó. Có một điều, khi xây tháp phải đổ đất ở trong và ngoài ngôi tháp để giữ  tháp cho vững, đồng thời làm phương tiện cho người thợ xây ngồi làm việc và lên xuống, ví dụ muốn xây một ngôi tháp có chiều cao 20m thì phải có diện tích mặt bằng để làm việc với đường kính là 30m, một ngôi tháp có chiều cao 10m thì phải có diện tích mặt bằng với đường kính 15m (vào khoảng 2/3 chiều cao), do đó nó có nhược điểm là ở những khu có tháp quây quần nằm gần sát nhau như ở Mỹ Sơn thì những ngôi tháp xây sau thường không được cao lắm.
Khi tháp xây lên tới đỉnh xong rồi lúc đó đỉnh tháp vẫn chừa lỗ trống chưa gắn vật trang trí vào. Người Chăm xưa để như vậy vài ngày cho gạch khô, se lại. Việc để cho gạch se khô lại (độ ẩm còn khoảng 20%) và việc pha thành phần cát vào trong gạch cũng là một kỹ thuật góp phần cho công đoạn nung tránh được sự nứt vỡ của vật liệu tại các mối liên kết. Sau đó bới dần đất ở phần đỉnh Tháp ra, chất cây khô chung quanh đốt cháy lên để nung phần đỉnh tháp cho chín.

Khi phần đỉnh tháp đã được nung xong thì người ta bới đất để đốt lửa nung phần tháp tiếp theo ở dưới. Cứ thế, người ta đốt lửa nung dần từng phần cho đến hết phần chân tháp. Ðến đây, tháp đã khá vững chắc, người ta bới đất ở trong tháp ra để chất củi đốt lên nung thêm ở phần trong cho hoàn chỉnh, kết thúc công đoạn nung tháp.

Ðối với đền tháp thì người Chăm xưa dùng phương pháp xây như trên. Còn đối với thành luỹ kiến trúc nhà ở, giếng nước và mồ mả thì người Chăm vẫn xây bằng gạch đã nung hoặc đá với vữa vôi + cát hoặc vôi với mật của đường mía. Trước đây ở Hội An, Thanh Chiêm và quanh tháp Bằng An có một đoạn thành và nhiều mồ mả của người Chăm xưa xây theo cách đó. Hiện nay, chỉ còn lại một ít giếng nước như giếng Bá Lễ, giếng Cô Tiên được xây  bằng gạch nung với vữa vôi + đường.
Và cuối cùng, sau khi nghiên cứu để đưa ra giả thiết đó, tôi đã kiểm chứng bằng giải pháp thực nghiệm và thu được kết quả khả quan. Quá trình tiến hành thực nghiệm từ mô hình như sau:

Tôi cho tiến hành xây và nung thử một ngôi tháp nhỏ bằng gạch mộc, có tỷ lệ gần đúng với tỷ lệ của ngôi tháp thật: cao 0,6m; rộng 0,3m; gạch cỡ :7cm x 4cm x 2cm. Ðịa điểm nung tại nhà Ông Lê Quốc Tuấn ở khối 5, Phường Thanh Hà, Hội An. Quá trình thực hiện xây và nung mô hình tháp đã được tôi thực hiện ghi hình lại.

Kỹ thuật xây dựng được tiến hành theo đúng nguyên mẫu của giả thiết được đặt ra. Chúng tôi đã dùng những viên gạch mộc pha cát có kích thước như vậy nhúng nước rồi xát và ép để kết dính chúng lại với nhau. Sau đó thực hiện điêu khắc, trang trí trên mô hình của tháp, đợi vài ngày cho gạch se khô lại rồi nung toàn bộ ngôi tháp theo đúng phương pháp giả định đã được đặt ra. Ðó là chúng tôi cho nung phía bên ngoài và phía bên trong ngôi Tháp.

Kết quả của quá trình thực nghiệm:
  • Công việc thực hiện điêu khắc cũng như việc xử lý, tạo hình các chi tiết trên Tháp được tiến hành khá dễ dàng trước khi nung vì được thực hiện trên gạch mộc.
  • Tháp sau khi nung nói chung là không khác biệt với Tháp Chăm cổ, rất vững chắc, không nghiêng, không đổ.
  • Cả ngôi tháp gần như không xuất hiện mạch vữa, tạo thành một khối gần như đồng nhất, có tính thẩm mỹ cao.
Ðể góp phần gìn giữ, tôn tạo, nghiên cứu và phát huy các giá trị của khu di tích Mỹ Sơn, việc tìm hiểu kỹ thuật xây dựng các tháp Chăm cổ là một việc làm cần thiết không những cho hiện tại mà cũng cho cả tương lai. Do vậy, kính mong các nhà khoa học, nghiên cứu và các nghành liên quan:
  • Tiếp tục khảo sát thực địa, nghiên cứu, phân tích để kiểm chứng lại phương pháp xây tháp đã gợi ý.
  • Nếu thấy cần thiết, các ngành chức năng có thể tiến hành xây và nung thử một ngôi tháp lớn trên thực tế.
Nếu với việc xác định đúng phương pháp, kỹ thuật xây dựng như vậy thì nó sẽ mở ra một phương pháp xây mới phục vụ cho ngành xây dựng, có nhiều ưu điểm hơn, thay thế cho lối xây bằng vữa xi măng + cát hoặc vôi + cát  như hiện nay đồng thời điều đó sẽ là cơ sở rất quan trọng cho công tác trùng tu và là một bước tiến đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu các tháp Chăm về lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, kỹ thuật xây dựng suốt hơn một thế kỷ qua.

Trên cơ sở thực hiện công việc nghiên cứu và thực nghiệm, mô hình về phương pháp và kỹ thuật xây dựng tháp bằng gạch mộc (gạch chưa nung, có pha cát) được thực hiện bằng cách nhúng nước rồi xát ép với nhau và thực hiện điêu khắc, trang trí trên gạch còn ướt đó, đợi cho gạch se khô lại rồi sau đó tháp được nung toàn bộ theo hình thức “Xây từ dưới lên và nung từ trên xuống” là một đề xuất. Rất có thể đó chỉ là một giả thuyết, còn nhiều vấn đề cần phải kiểm chứng và cũng vì rằng Chămpa là một phức hệ gồm nhiều tiểu quốc khác nhau nên từ ngày xưa cũng có thể có những kỹ thuật xây dựng khác nhau và cũng đã trải qua nhiều lần trùng tu trong quá trình tồn tại. Tuy nhiên, hy vọng giả thuyết này sẽ góp phần giúp các nhà khoa học và nghiên cứu có thể mở ra thêm một hướng mới trong công tác nghiên cứu xác định kỹ thuật xây dựng tháp.

 http://ashui.com/mag/congdong/kysu/634-tim-hieu-ky-thuat-xay-dung-thap-co-cham-pa-tai-mien-trung-viet-nam.html

Nhãn: , , , ,

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2016

Bức tường khổng lồ trong hang Sơn Đoòng

Thứ ba, 23/2/2016

Nằm ở cuối hang Sơn Đoòng, bức tường Việt Nam (The Great Wall of Viet Nam) là phần thưởng xứng đáng cho hành trình chinh phục gian nan của du khách.
Bức tường khổng lồ trong hang Sơn Đoòng  
The Great Wall of Viet Nam là bức tường cao gần 100 m nằm ở đoạn cuối của hang Sơn Đoòng, nối với hang chính bởi một hồ nước dài 500 m.
 
Bức tường khổng lồ trong hang Sơn Đoòng  
Có kích thước khổng lồ lại nằm sâu 6 km trong lòng hang, bức tường được các chuyên gia hang động đánh giá là kiệt tác thiên nhiên. Tuy nhiên, hình ảnh của bức tường lại không hề phổ biến như Hố sụt, Vườn địa đàng, Coi chừng khủng long... trong hang Sơn Đoòng.
 
Bức tường khổng lồ trong hang Sơn Đoòng  
Vượt qua bức tường này là một thử thách không hề dễ dàng với du khách, ngay cả với những người thích leo núi. Khi đó, họ phải sử dụng các thiết bị hỗ trợ và thực hiện theo đúng hướng dẫn của chuyên gia.
 
Bức tường khổng lồ trong hang Sơn Đoòng  
Trải qua hàng vạn năm, tinh thể canxi đã bao bọc những hạt cát nhỏ để tạo thành “viên ngọc trai” quý hiếm.
 
Bức tường khổng lồ trong hang Sơn Đoòng  
Một trong những nét độc đáo của Sơn Đoòng chính là điều kiện khí hậu riêng tạo nên hệ sinh thái đa dạng. Bởi vậy, ngay cả khi đi sâu xuống lòng đất, du khách vẫn có thể bắt gặp những sinh vật tồn tại.
 
Bức tường khổng lồ trong hang Sơn Đoòng  
Một con dã tràng với màu sắc khác lạ.
 
Bức tường khổng lồ trong hang Sơn Đoòng  
Một bộ xương dê núi bị hóa thạch chừng vài trăm năm.
 
Bức tường khổng lồ trong hang Sơn Đoòng  
 Phía sau bức tường là đoạn hang 600 m và có lối ra cửa sau.
 
Vy An
Ảnh: Ryan Deboodt
http://dulich.vnexpress.net/photo/anh-video/buc-tuong-khong-lo-trong-hang-son-doong-3359152.html

Nhãn: ,