Đại địa mạch quốc gia
Chuyện 700 năm trước
Trong
trận đánh Nguyên Mông lần thứ 3 năm 1288, có hai người “phạm lỗi” với
Triều đình nhà Trần, nhưng đều đã lập nên chiến công lớn, góp phần không
nhỏ vào việc đuổi giặc Nguyên Mông. Đó là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư,
con nuôi của vua Trần Thánh Tông và Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng,
con trai thứ 3 của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Sách
cũ kể rằng Trần Khánh Dư là người rất có tài, nhưng ăn nói thì quá mạnh
bạo mà sinh hoạt thì hơi phóng túng, nên bị nhà Vua tước hết quan chức,
bổng lộc và ông buộc phải về quê ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm
sống.
Nhưng
cũng tại nơi đây, Trần Khánh Dư được phục chức và đã trở thành Phó
tướng Vân Đồn. Ông đã chỉ huy quân ta phá tan đội thuyền tiếp tế lương
thực của quân Nguyên Mông và góp công lớn vào trận chiến thắng lịch sử
trên sông Bạch Đằng.
Võ
đã giỏi, văn cũng hay, sau này Trần Khánh Dư là người viết lời tựa cho
cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Trần Hưng Đạo, ông viết như sau:
Người giỏi võ cầm quân thì không cần bày trận
Người giỏi bày trận thì không cần đánh
Người giỏi đánh thì không thua
Người khéo thua thì không chết
Sách
cũ cũng kể rằng Trần Quốc Tảng là một người có tài đặc biệt về quân sự,
nhưng vì lúc nhỏ luôn ở bên cạnh ông nội là Trần Liễu, nên Quốc Tảng
từng có biểu hiện muốn cướp ngôi vua từ trong tay dòng thứ, để giành
ngôi cho cha mình là dòng trưởng, khiến Trần Hưng Đạo giận, nên đã “đẩy”
con trai đi trấn thủ tận Cửa Suốt, là một nơi ở rất xa Triều đình để
tránh hậu hoạ.
Nhưng
cũng tại nơi biên cương Tổ quốc này, Hưng Nhượng Vương đã lập nên kỳ
tích trong trận thắng Bạch Đằng Giang năm 1288, khiến cho sau khi ngài
qua đời năm 1313, nhân dân đồn rằng Đức Ông Trần Quốc Tảng hiện về nhắc
nhở, nên đã xây Đền thờ Ngài cùng nhiều tướng lĩnh ở ngay trên đỉnh núi
nhìn ra Bái Tử Long.
Ngày
nay ngôi Đền Cửa Ông toạ lạc trên núi cao, không khác gì một trạm gác
tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long, khiến cho hậu thế có nhiều người
thắc mắc rằng có thật là hai vị tướng danh tiếng đó do vì có tội nên bị
điều ra tận nơi biên cương ấy, hay phải chăng đây cũng là một trong
những “bí truyền thư” mà Đức Thánh Trần đã lưu lại để dạy bảo cho chúng
ta?
Khi bí mật không còn là bí mật
Cách
đây gần 10 năm, trên mạng thông tin quốc tế có một tấm bản đồ thật thú
vị: Hình một con rồng rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh
Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lưng uốn theo hướng Tây Bắc
Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt
Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã kết thúc ở vùng đại dương
sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m).
Đó
là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các
triền núi đó không thẳng băng mà uốn lượn như hình con rồng, tạo ra mạch
núi và mạch nước tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nước ta.
Thế
mới biết tại sao vùng đất này luôn luôn bị người ngoài thèm khát và dòm
ngó. Và thế mới biết sự uyên bác kỳ tài của Thiền sư Vạn Hạnh và Vua Lý
Thái Tổ đã quyết rời bỏ Hoa Lư, để trở về vùng đất Thăng Long và triệt
phá được thiên la địa võng mà Cao Biền đã trấn yểm trên thành Đại La cũ
200 năm trước.
Cho
đến hôm nay, tất cả những người có chút hiểu biết về phong thủy và lý
thuyết về địa mạch thì đã hiểu rằng tất cả mọi bí mật xa xưa về đường
kinh mạch, về huyệt đạo linh thiêng mà chỉ có các thầy pháp cao tay mới
nắm giữ được, thì nay đã bị phơi bày ra tất cả.
Cái
chính là “thiên hạ” thì biết cả, nhưng những người trong cuộc có ý thức
được vấn đề và có những giải pháp mạnh để làm chủ các lợi thế đó hay
không?
Nhìn vào sơ đồ “vi địa mạch”
Trở
lại với địa hình núi sông trên miền Bắc nước ta, thì có 8 dãy núi vòng
cung tạo thành hình rẻ quạt là dãy Đông Triều, dãy Ngân Sơn, dãy Bắc
Sơn, dãy Tam Đảo, dãy Sông Gâm, dãy Hoàng Liên Sơn , dãy Sông Đà và dãy
Hoà Bình, trong đó Hoàng Liên Sơn nối từ Hy Mã Lạp Sơn về có đỉnh Phan
xi păng cao nhất Đông Dương (3143m).
Hướng đi của các dãy núi đều hình thành các con sông như sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu…
Thế
nhưng các dãy núi chỉ “chầu” nên đều đã dừng lại từ xa, còn các con
sông thì đã “tụ” lại ở Việt Trì và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính
vùng Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đã “mọc”
lên ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba Vì linh thiêng đầy huyền thoại.
Đỉnh núi này nhìn theo đường chim bay thì chỉ cách Hồ Tây chừng 25km.
Nhờ
khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi từ sông
Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa xuân năm
1010, nhà vua có thể nhìn thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa nhìn thấy
đỉnh Ba Vì, nên cái tên Thăng Long và tứ văn “Đắc Long bàn Hổ cứ chi
thế, tiện núi sông hướng bối chi nghi” mới xuất hiện trong bản Thiên đô
chiếu bất hủ.
Ngày
nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng tìm thấy đỉnh cao 1226m,
nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một đường kinh
mạch đi theo hướng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị
tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và Vịnh biển Bái Tử Long, ở
đó đã có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân dân và hải quân ta hằng
tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của Đức Ông Trần Quốc Tảng xưa,
đã và sẽ mãi mãi là một quân cảng quan trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc.
Cũng
trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một đường theo hướng Đông Bắc-Tây Nam mà
mọi người quen gọi là Trục Thần Lộ đi từ đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị,
lên đến thành Cổ Loa- Kinh đô 2300 năm trước của vua An Dương Vương và
cũng là Kinh đô hơn 1000 năm trước của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ
gặp phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 của Đại tướng Lý Thường Kiệt
và Ngã ba sông Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lập
đại bản doanh chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288.
Kỳ
lạ thay, đường chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa
ải phía Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hướng Đông Bắc là hướng Ngũ
quỷ, lộc có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh
anh của Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ?
Những
người có chút tính hiếu kỳ không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra
trục kinh mạch nằm ngang ở 21 độ vĩ bắc 3’ 28’’ từ đỉnh Ba Vì và trục
Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở chính vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi
người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia.
Tại
sao có cái tên đó? Tại vì nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nước sông Hồng
dâng cao, như thể hồ và sông là cái bình thông nhau. Nhiều người vẫn
còn nhớ vào chiều thu nắng đẹp ngày 11/9/1955, người ta đã chứng kiến
chính nơi đó đã có cột nước bất chợt phụt lên làm lật úp ba chiếc thuyền
gỗ khiến 4 người bị thiệt mạng.
Tiến
sĩ Vật lý Nguyễn Thế Hùng ở Viện Vật lý nghe mô tả lại hiện tượng đó
thì đoán rằng chắc có kẻ nào đó đã chui xuống đáy hồ sờ soạng, khiến
mạch nước có áp suất lớn bỗng bật lên như khi người ta mở nút chai rượu
champagne?
Am Mỵ Châu thờ ai?
Lúc
sinh thời, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng rất hay được mời đi nói
chuyện ở nơi này nơi khác. Với giọng nói đầy tự tin, giàu hình ảnh và
hơi ngang ngang, giáo sư Vượng có cách truyền đạt ý tưởng rất thuyết
phục, khiến cho người nghe chưa tin lắm mà vẫn phải tin, đặc biệt với
người không theo học ngành sử, hiểu biết sử liệu rất ít mà cũng trở
thành rất “am hiểu” về lịch sử. Xin kể đôi điều câu chuyện ông giải
thích về am Mỵ Châu ở thành Cổ Loa như sau.
Trong
một dịp ngày 8 tháng 3, chúng tôi được nghe một bài giảng của giáo sư
Trần Quốc Vượng về tầm quan trọng của Cổ Loa Thành và am thờ nàng Công
Chúa Mỵ Châu đối với Thủ đô của chúng ta.
Giọng đầy vẻ bí mật, giáo sư Vượng hỏi:
-
Các cô có hiểu tại sao hơn 2000 năm qua, nhân dân ta, kể từ vua chúa
đến thường dân đều thành kính thờ một người con gái cụt đầu có tên là
Công chúa Mỵ Châu trong một cái am nho nhỏ ở Đền Cổ Loa hay không?
- Dạ không
Đó
chính là ta thờ Người Mẹ Tổ Quốc của chúng ta đó. Chuyện tình duyên của
Mỵ Châu Trọng Thuỷ là chuyện bịa đặt, nhưng chuyện dân tộc ta vì quá
nhân hậu và thiếu cảnh giác nên trót đặt trái tim lên đầu để Triệu Đà
cướp mất nước là có thật. Đạo gốc của dân tộc ta là Đạo Mẫu. Bản chất
người mẹ là bản chất nhân hậu và dễ bị lừa.
Xưa
kia dân tộc ta đã từng bị lừa, hiện nay cũng đang bị lừa và có thể ta
còn bị lừa nữa, bởi vậy nàng Công Chúa Mỵ Châu cụt đầu là hiện thân của
Người mẹ Tổ quốc đã và đang đau khổ nhắc ta phải luôn cảnh giác.”
- Vậy câu chuyện nỏ thần là có thật hay không?
-
Không! Ta có một bí mật quốc gia quý hơn nỏ thần nhiều nhưng không ai
ăn cắp được. Từ 2000 năm trước bí mật đó đã không còn là bí mật nữa rồi,
nhưng kẻ thù đã từng ra sức phá. Hiện nay chúng cũng đang phá bằng khẩu
hiệu “bài đế phản phong” để ta tự phá ta, để ta quên đi ta đang có báu
vật trong tay.
- Vậy làm cách nào để khắc phục?
- Thiên cơ bất khả lộ. À, có cô nào thích xem tử vi không?
- Có ạ, có ạ!
- Tốt, tôi sẽ lập lá số cho từng người và sẽ có lời khuyên riêng từng người.
Cố
Giáo sư Trần Quốc Vượng rất giỏi khoa tử vi, ông chỉ hỏi ngày sinh
tháng đẻ rồi bấm bấm ngón tay mấy cái là phán như thánh phán.
Ông
cười nhạo, nói: “Tử vi liên quan đến số phận riêng của từng người thì
ai cũng quan tâm, nhưng cứ giấu giấu giếm giếm như kẻ ăn vụng. Còn có
cái khác quan trọng hơn Tử vi liên quan đến vận mệnh đất nước thì hễ ai
quan tâm đều bị coi là nhảm nhí. Thế mới khổ!”
Ảnh : Sơ đồ đại địa mạch
Theo Tuanvietnam.
|
|
Trần Thanh Vân | |
Nhãn: Lịch sử
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ