Đàn nam Giao Một công trình kiến trúc quan trọng của kinh thành Thăng Long
Trong
quần thể các công trình kiến trúc của kinh thành Thăng Long, có một
công trình kiến trúc mà dù bất cứ vương triều phong kiến Việt Nam nào
lên trị vì cũng không thể thiếu nó, đó là đàn Nam Giao.
Đàn Nam Giao là một loại đàn tế, lễ tế ở đàn Nam Giao gọi là lễ tế giao. Đàn Nam Giao được dựng ở phía Nam của Hoàng Thành, thẳng trục với cửa thành phía Nam và chỉ cách cửa này vài ba Km đường chim bay. Có thể dẫn ra đây một vài ví dụ:
-
Đàn Nam Giao Thăng Long thời Lí- Trần - Lê (ở khu vực ngã tư các phố Bà
Triệu- Đoàn Trần Nghiệp - Lê Đại Hành-Thái Phiên- Mai Hắc Đế, cách cửa
Nam thành Thăng Long chừng 2 km.
-
Đàn Nam Giao nhà Hồ (Xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá),
cách cửa Nam thành Tây Đô (hay còn gọi là thành nhà Hồ) 2,5 km.
-
Đàn Nam Giao ở thành Vạn Lại (Xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh
Hoá) do vua Lê Thế Tông, niên hiệu Quang Hưng thứ nhất (Năm 1578), khi
chạy vào Thanh Hoá để thủ hiểm chống quân Mạc Mậu Hợp, thậm chí còn được
dựng ở ngay bên ngoài của luỹ. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép : “Lập Đàn tế Nam Giao ở Vạn Lại. Trước kia dựng hành tại ở Vạn Lại; sau đó lập đàn tế Nam Giao ở phía ngoài cửa luỹ” (Quốc sử quán triều Nguyễn (Bản chế bản điện tử) Tr. 663)...
Đàn Nam Giao và lễ tế Nam Giao ở Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển khá phức tạp.
1. Sơ lược về lịch sử phát triển của đàn Nam Giao và lễ tế Nam Giao:
1.1. Về tên gọi của đàn Nam Giao:
Trước hết, đàn Nam Giao thuộc loại hình đàn tế.
Đàn Nam Giao lúc đầu chỉ để tế trời vào ngày lễ đông chí. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí có dẫn sách Chu lễ như sau: “Ngày đông chí tế Trời ở đàn Viên khâu, ngày hạ chí tế Đất ở đàn Phương trạch, đấy là lễ của vương giả.” (Phan Huy Chú 1992 :29)
Phan Huy Chú cũng dẫn theo sách này: “Xét: Theo sách Chu lễ, Viên khâu gọi là Nam giao, Phương trạch gọi là Bắc giao” (Phan Huy Chú 1992 :30) . Trong 2 đoạn dẫn này có 2 điều cần lưu ý:
- Nam Giao là tên gọi khác của Viên Khâu, là đàn tế trời vào tiết đông chí.
- Phương trạch là tên gọi khác của đàn Bắc Giao, là đàn tế đất vào tiết hạ chí.
Phan Huy Chú cũng lúng túng, có lúc ông cho rằng lễ tế ở đàn Phương Trạch và đàn Nam Giao được hợp làm một, có chỗ lại không cho là như vậy.
Theo chuyện Công Dương trong Kinh Xuân Thu, vua thân hành đến đàn Nam giao cầu đảo, cho đồng nam, đồng nữ mỗi bên 8 người vừa múa vừa hô to “Vu! Vu! Vì thế gọi là Đàn Vu.
Sử sách đều ghi chép 3 đàn Viên Khâu - Vu Đàn - Nam Giao đều nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Chúng tôi ngờ rằng tên gọi của 3 đàn có thể là tên gọi khác nhau của cùng một loại đàn. Tên gọi
đàn Nam Giao xuất hiện lần đầu tiên khi sử sách ghi chép về việc Hồ Hán
Thương tổ chức tế Nam Giao ở Đốn Sơn nhưng không thành.
Trong 1 đoạn khác, Phan Huy Chú cũng dẫn sách Chu Lễ: “Xét:
Lễ tế Giao đời cổ có hai nghĩa: một là tế để đón hòa khí, tức như trong
sách Chu lễ nói: đông chí tế Trời ở đàn Viên khâu; hai là tế để cầu
được mùa, tức là như thiên “Nguyệt lệnh” Kinh lễ nói: Ngày mồng một
tháng giêng vua tế Trời để cầu được mùa. Đời sau, lễ tế ở đàn Viên khâu
và đàn Phương trạch không làm nữa, chỉ có đầu xuân tế Giao, hợp tế cả
Trời Đất. Khoảng năm Hồng-vũ (1368-1398), nhà Minh định thành điển. Đầu
nhà Lê mới dùng chế độ nhà Minh, làm lễ vào tháng giêng, hơn 300 năm sau
vẫn theo không thay đổi” (Phan Huy Chú 1992 : 30,31).
ở đoạn dẫn này thì thấy đàn Nam Giao trước đó vốn được dùng để tế trời và cầu được mùa. Từ cuối thế kỷ XIV trở đi ở Việt Nam và Trung Quốc mới có quy định chẽ về đàn Nam Giao và tế Nam Giao: ở
Việt Nam, đàn Nam Giao là nơi tế trời đất, linh vị các tiên đế đương
triều vào ngày tốt đầu xuân hàng năm và do chính nhà vua trực tiếp tế.
Việc quy định 2-3 năm một lần làm đại lễ tuỳ thuộc vào mỗi vương triều.
Tế Nam Giao được quan niệm là lễ tạ ơn, báo cáo với trời đất về sự hiện
diện của vương triều, cầu mong sự trường tồn của vương triều, sự thịnh
vượng của quốc gia, của “ quốc thái dân an”.
Chính vì ý nghĩa quan trọng này mà tế Nam Giao được coi là nghi lễ mang tính cung đình,” là lễ của vương giả”, đàn Nam Giao trở thành một công trình kiến trúc cung đình không thể thiếu của vương triều, ít nhất là từ thời Lí trở đi.
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của kinh thành Thăng Long, đàn Nam Giao luôn song hành với kinh thành này.
1.2. Về chức năng của đàn Nam Giao:
Chức
năng của đàn Nam Giao cũng được hình thành trong một quá trình lịch sử
lâu dài. Ngoài chức năng chính là tế trời, đàn Nam Giao còn có các chức
năng khác.
Thời
Lý, đàn Nam Giao chủ yếu mang chức năng cầu đảo, mưa thuận, gió hoà,
chức năng tạ ơn trời đất không thấy được ghi chép. Chức năng của đàn Nam
Giao và tế Nam Giao được nhắc đến 3 lần vào các năm 1137 và 1138:
- Chức năng cầu mưa:
Năm 1138 : “Tháng
6, mùa hạ. Hạn hán, nhà vua xuống chiếu cho bầy tôi hội nghị. Sai Tả ty
lang trung Nguỵ Quốc Bảo triệu tập các bầy tôi đến họp bàn về đại hạn.
Phạm Tín xin đến đảo vũ ở đàn Vu. Nhà vua y theo lời, bèn sai quan lại
làm lễ đảo vũ ở đàn Vu và chùa Báo Thiên”. (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ (Bản chế bản điện tử), quyển 4: 142).
Trong đoạn dẫn này thì ở thời Lý vua có thể không trực tiếp cầu đảo mà giao cho các quan trong triều.
Việc
tế Nam Giao ở thời Trần, sử sách nước ta đều cho rằng không có, có thể
do không được ghi chép lại. Tuy nhiên, khi khai quật đàn tế Nam Giao ở
thành Thăng Long (địa điểm 114, Mai Hắc Đế, Hà Nội) thì thấy tại đây có
khá nhiều vật liệu kiến trúc, di vật thờ cúng và sinh hoạt của thời
Trần. Một điểm nữa là khi Hồ Hán Thương tổ chức tế Nam Giao ở Đốn Sơn -
Thanh Hoá thì sử sách nước ta lại chép rằng: “Theo lệ cũ, cứ 3 năm một lần đại lễ” (Phan Huy Chú 1992 :29). Chúng tôi ngờ rằng lệ cũ ở đây là lệ của thời Trần chứ không phải là lệ của thời Lý.
Có
lẽ từ thời Lê trở đi, việc tế Nam Giao được triều đình rất coi trọng,
vua trực tiếp tế Nam Giao. Trong khi hành lễ tế Nam Giao bất kỳ một sơ
sẩy nào cũng được coi là điểm gở. Trong lịch sử tế Nam Giao, có 2 lần sự
cố xảy ra trong khi hành lễ. Sự cố thứ nhất là vào năm 1403, khi Hồ Hán
Thương dâng rượu tế Nam Giao, tay run đánh đổi rượu xuống đất đã huỷ bỏ
lễ tế Nam Giao năm ấy. Sự cố thứ 2 vào năm 1572, vua Lê Anh Tông khi
làm lễ tế Nam Giao đã đánh đổ lư hương nên phải đổi niên hiệu từ Chính
Trị sang niên hiệu Hồng Phúc.
- Chức năng tế trời đất: “Nhâm Thân, [Hồng Phúc] năm thứ nhất [1572], (Mạc Sùng Khang năm thứ 7; Minh Long Khánh năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, vua tế trời đất ở đàn Nam
Giao. Khi làm lễ, vua bưng lư hương khấn trời xong, bỗng lư hương rơi
xuống đất. [35b] Vua biết là điểm chẳng lành, bèn xuống chiếu đổi niên
hiệu thành Hồng Phúc năm thứ nhất.” (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư,
bản kỷ (chế bản điện tử), quyển 4, tr. 617). Với chức năng này, tế Nam
Giao nhằm tạ ơn trời đất, cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, cầu
cho vương triều mãi mãi trường tồn, có tạ ơn trời đất thành kính thì mới
trị quốc được dễ ràng.
Đặc biệt là trong bài ký khắc trên tấm bia Nam Giao điện bi ký được dựng năm 1679 ở đàn Nam Giao Thăng Long đã khẳng định: “Nơi tế giao sao lại gọi là điện Chiêu sự? Bởi vì đây thờ thượng đế
vậy. Làm sáng tỏ lễ tế giao thì việc trị nước rõ như coi trên bàn tay.
Nước Đại Việt ta được dựng nên, đất đai muôn dặm. Xem việc đặt đỉnh, đắp
thành, biết rõ được việc dựng nước. Xem hướng lập điện, biết rõ được sự
kính cẩn về việc tế trời. Chọn góc mé nam thành, xây điện Chiêu sự đàn Nam Giao, chính là nơi muôn loài sinh trưởng”
- Chức năng tế thần và các vị hoàng đế tiền triều: Chức năng này được Phạm Đình Hổ chép lại trong Vũ Trung tuỳ bút. Các vị thần được tế là hậu kỳ thổ địa, các vị tinh tú và các vị thần khác.
Ngoài các chức năng trên, ở thời Tây Sơn, đàn Nam Giao còn là nơi công bố, niêm yết khi thay đổi niên hiệu.
ở
thời Nguyễn việc tế Nam Giao được quy định chặt chẽ hơn, có các bàn thờ
trời cúng Ngọc Hoàng thượng đế, các tiên đế tiền triều, bàn thờ đất,
cúng các vị thần Mặt trời, các vì sao, thần gió, mây, mưa, sấm, thần núi
biển, sông, hồ, thần đồng bằng, thiên binh, thiên tướng...
1.3. Về lịch sử phát triển của đàn Nam Giao:
Theo
hiểu biết của chúng tôi, ngoại trừ việc các chúa Nguyễn có một số lần
xây dựng đàn Nam Giao thì đến nay đã có 6 đàn Nam Giao như sau:
- Đàn Nam Giao ở kinh đô Thăng Long được xây dựng từ thời Lý.
- Đàn Nam Giao ở Thanh Hoá do Hồ Hán Thương xây dựng trên dãy Đốn Sơn vào năm 1403.
-
Đàn Nam Giao ở Vạn Lại xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá do
vua Lê Thế Tông (niên hiệu Quang Hưng thứ nhất, năm 1578) xây dựng.
- Đàn Nam Giao ở kinh đô Phú Xuân của triều Tây Sơn.
- Đàn Viên Khâu (Nam Giao) thời Tây Sơn do Quang Toản đắp ở ngoài cửa Liễu Thị (Hà Nội).
- Đàn Nam Giao ở kinh thành Huế của vương triều Nguyễn được xây dựng năm 1806.
Lần đầu tiên tên đàn Viên Khâu (đàn Nam Giao) được xuất hiện vào thời Lý. Đại Việt sử ký toàn thư có chép như sau: [Năm 1154], “Tháng 9, vua ngự ra cửa Nam thành Đại La xem đắp đàn Viên Khâu.” (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư,
Bản kỷ (chế bản điện tử), quyển 4: 142). Trước đó, cũng sách này còn có
2 đoạn chép về Vu Đàn là loại đàn cầu đảo khi hạn hán:
- Năm 1137 : “Tháng 6, hạn, xuống chiếu cho Nguyễn Công Đào đến Vu Đàn ở phía Nam làm lễ cầu mưa”. (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ (chế bản điện tử), quyển 3:133)
- Năm 1138: “Tháng
6, mùa hạ. Hạn hán, nhà vua xuống chiếu cho bầy tôi hội nghị. Sai Tả ty
lang trung Nguỵ Quốc Bảo triệu tập các bầy tôi đến họp bàn về đại hạn.
Phạm Tín xin đến đảo vũ ở Đàn Vu. Nhà vua y theo lời, bèn sai quan lại
làm lễ đảo vũ ở Đàn Vu và chùa Báo Thiên”. (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ (chế bản điện tử), quyển 3:142).
Trong
thực tế khi khai quật di tích đàn Nam Giao địa điểm 114, Mai Hắc Đế,
Hai Bà Trưng, Hà Nội, chúng tôi đã phát hiện được khá nhiều viên gạch
thời Lý in hàng chữ Hán: “Lý Gia đệ tam đế Long Thuỵ Thái Bình tứ niên
tạo” (năm 1057) ở lớp văn hoá dưới cùng. Đây là niên hiệu của vua Lý
Thánh Tông (1054 - 1072). Điều này cho thấy nhiều khả năng đàn Nam Giao ở
nước ta có từ rất sớm. Tuy nhiên sử sách điều không ghi rõ về sự kiện
này. Thông thường là khi một quốc gia, một vương triều được thiết lập
thì đàn Nam Giao là một trong những công trình thiết yếu của quốc gia,
của vương triều đó phải được xây dựng sau đó ít lâu. Ví dụ triều Hồ được
thiết lập năm 1400 thì năm 1403 đã xây đàn Nam Giao ở Thanh Hoá; Triều
Nguyễn được thiết lập năm 1802 thì năm 1806 đã xây dựng đàn Nam Giao ô
kinh thành Huế.
Trong
bài viết này chúng tôi không có ý định trình bày tất cả các đàn Nam
Giao của các vương triều phong kiến Việt Nam, mà chỉ trình bày những kết
quả khai quật khảo cổ học mới nhất về đàn Nam Giao ở Thăng Long nhằm để
góp phần làm rõ hơn một công trình kiến trúc quan trọng nằm trong quần thể các kiến trúc xung quanh kinh đô Thăng Long thời Lý - Trần - Lê.
2. Đàn Nam Giao Thăng Long Thời Lí- Trần- Lê:
Đàn
Nam Giao ở kinh thành Thăng Long có một lịch sử phát triển và tồn tại
lâu dài nhất so với những đàn Nam Giao hiện biết. Đàn Nam Giao Thăng
Long trải qua các triều đại Lí, Trần, Lê và một phần của thời Tây Sơn,
đã được ghi chép trong khá nhiều sử sách, bia kí và địa bạ cổ nước ta
như: Đại Việt sử kí toàn thư, Kiến văn tiểu lục, Lê triều hội điển,
Vũ trung tùy bút, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất
thống chí, Thăng Long cổ tích khảo, Địa bạ huyện Thọ Xương, Nam Giao
điện bi ký...
Đặc biệt trong địa bạ của thôn Thịnh Yên, tổng Kim Hoa, huyện Thọ Xương có ghi rằng nền điện Nam Giao cũ có diện tích 308m2, chu vi 42m, cao 0,42m (Phan Phương Thảo 2006: 28 - 35).
Tấm bia Nam Giao điện bi ký, dựng năm 1679 được phát hiện ở khu vực số 114 phố Mai Hắc Đế- ngõ Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, cùng với sổ Địa bạ huyện Thọ Xương, những dòng ghi chép trong Đại Nam Nhất Thống chí, Vũ trung tùy bút...
Những tư liệu thành văn này chỉ mới cho biết rõ vị trí của đàn Nam Giao
Thăng Long thời Lê Trung Hưng - Tây Sơn. Việc xác định Nam Giao Thăng
Long thời Lí Trần và Lê sơ còn phải nhờ đến tài liệu khảo cổ học.
Đàn
Nam Giao Thăng Long chính là khu vực nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo (nay
là Công ty cơ khí cổ phần Trần Hưng Đạo), số 114 phố Mai Hắc Đế, quận
Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đàn này tồn tại từ thời Lý đến thời Tây Sơn. Phạm
Đình Hổ trong Vũ Trung tuỳ bút có một đoạn viết như sau: “Mùa
hạ năm Tân Dậu (1801) vua Thiếu chủ đời Tây Sơn (Quang Toản) bỏ Phú Xuân
chạy ra Bắc thành đổi Bắc thành là Kinh Bắc, cho đắp gò Viên Khâu ở
ngoài cửa Liễu Thị, xây đàn Phương Trạch ở trên Tây hồ, định cứ đến ngày
đông chí, hạ chí thì tế thiên địa ở hai nơi ấy.” (Phạm Đình Hổ 1972 : 70).
Trong đoạn viết này thì :
- Dưới thời Tây Sơn đàn Nam Giao (Viên Khâu) và đàn Phương Trạch lại là 2 đàn khác nhau.
- Năm 1801, trước khi nhà Nguyễn được tạo dựng, đàn Nam Giao Thăng Long đã chính thức bị phế bỏ.
Nhưng
trong thực tế thì ngay từ thời Tây Sơn, đàn này đã không còn giữ vị trí
và chức năng như trước chỉ còn là nền cầu đảo mỗi khi có hạn hán, là
nơi cáo yết khi thay đổi niên hiệu...Nền đàn được xây ngôi đền nhỏ thờ
Liễu Hạnh, tại đây diễn ra các cuộc lên đồng và những chuyện hoang đường
khác đã được ghi chép trong Vũ Trung tuỳ bút.
Thời
Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802-1819), đàn đã thì bị phá để lấy gạch
xây thành. Năm Tự Đức thứ 11 (1857) ngôi đền chính ở phường Thịnh Yên bị
cháy. Điều này đã được ghi chép trong Đại Nam Nhất Thống chí: “Bản
triều đầu đời Gia Long giỡ lấy gạch đá để xây thành, chỉ còn đền chính ở
phường Thịnh An (có sách chép là phường Lương Giang). Năm Tự Đức thứ
11, đền bị hoả tai” (Quốc sử quán triều Nguyễn 1997: 193-194 ).
Sau
đó khu vực nền đàn Nam Giao bị biến thành khu nghĩa địa của thôn Thịnh
Yên, mà trong cuộc khai quật đàn này vào năm 2007 - 2008, Viện Khảo cổ
học đã tìm được dấu vết của 21 mộ táng có niên đại khoảng cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX.
Đầu
thế kỉ XX, người Pháp đã phá đàn Nam Giao để xây dựng nhà máy. Năm
1956, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo được xây dựng trên nền đất của đàn
Nam Giao. Hiện nay toà nhà thương mại Vincom Tower đã được xây dựng ở một phần của khu vực đàn Nam Giao.
Năm 2006, Viện Khảo cổ học đã đào thám sát ở khu vực phía Nam, trên phần đất còn lại của đàn Nam Giao, với diện tích đào là 101.06 m2.
Tiếp theo, vào các năm 2007 và năm 2008 Viện Khảo cổ học và Ban quản lý
di tích và danh thắng Hà Nội đã tiến hành 3 đợt khai quật khảo cổ học
trên phần đất còn lại của khu di tích đàn Nam Giao và 1 đợt di dời toàn
bộ phần móng còn lại của kiến trúc nhà chữ công thời Lí về kho tạm Đống
Thây (quận Đống Đa, Hà Nội), với tổng số diện tích khai quật 1.805m2.
2.1. Đàn Nam Giao Thăng Long thời Lí:
Trở lại 2 đoạn dẫn từ sách Đại Việt sử kí toàn thư, vào các năm 1137 và 1138 chép về Vu Đàn, mà theo Kinh Xuân Thu, thì Vu Đàn chính là đàn Nam Giao như đã nêu ở trên, chúng ta thấy đàn này đã có từ trước đó, nhưng có từ bao giờ thì chưa biết.
Do
đàn Nam Giao Thăng Long đã bị đào sới, san lấp qua nhiều thời, nhà cửa
xây cất chồng chéo lên trên và xung quanh nên không thể xác định được
các tầng nền đàn và khu vực trung tâm, nhưng kết quả đào thám sát và
khai quật di tích đàn Nam Giao ở địa điểm 114 Mai Hắc Đế, quận Hai Bà
Trưng, Hà Nội, từ năm 2006- 2008, đã góp phần làm sáng tỏ thêm về đàn
Nam Giao Thăng Long.
2.1.1. Về địa tầng :
Gồm có tầng đất mặt, tầng văn hóa đàn Nam Giao và tầng sinh thổ.
- Tầng đất mặt: Dày từ 1,05m đến 1,94m. Gồm hai lớp đất:
- Lớp văn hoá hiện đại: đất lẫn gạch ngói bê tông, trụ móng nhà, bệ máy được hình thành từ khoảng 1957 đến 1985.
- Lớp văn hoá cận đại:
đất san lấp, có chỗ tương đối thuần, màu nâu. Tầng đất được hình thành
vào khoảng đầu thế kỉ XX, có thể là khi xây dựng nhà máy diêm thời Pháp
thuộc. Các ngôi mộ táng ở thế kỉ XX có miệng huyệt bắt đầu từ tầng đất này.
- Tầng văn hóa đàn Nam Giao: Gồm 2 lớp:
+ Lớp 1:
Lớp đất đắp nền đàn màu nâu xám, lẫn chủ yếu là gạch ngói vụn thời Lê
được đầm chặt và phân bố rộng. Đây là lớp đất mặt đàn ở bên trên cùng
của di tích đàn Nam Giao. Miệng huyệt của các ngôi mộ thế kỉ XI X đều
bắt đầu từ tầng đất này.
+ Lớp 2:
Chủ yếu là tầng đất sét vàng xám được đắp tương đối dày với các vết
tích của vật liệu kiến trúc thời Lê sơ và thời Lý-Trần. Độ sâu và độ dày
của lớp này tùy thuộc vào vị trí của mỗi hố.
- Sinh thổ: Là tầng đất gốc, có 3 lớp đất sau:
-
Lớp trên cùng, đất màu nâu hồng bị Laterite hóa nên chứa nhiều sạn đầu
ruồi. ở một số hố khai quật, trong tầng này vẫn có di tích thời Lý-Trần
được đào sâu xuống như các trụ móng và đường móng sành của ngôi nhà có
bố cục hình chữ công, còn lại hầu hết là không có hiện vật. Đợt đào thám
sát năm 2006, chúng tôi đã chia tầng này thành 2 tầng là tầng 5 và tầng
6. Độ dày của tầng này rất khác nhau. Có những hố tầng này dày hơn 1m.
- Lớp đất ở giữa, tầng sét xám xanh, thuần mịn, hoàn toàn không có hiện vật. - Lớp đất sét vàng xẫm ở dưới, độ sâu từ 3,90m đến 4,2m trở xuống.
Qua
các hố đào ở khu vực này thì thấy khu vực đàn Nam Giao có nhiều gò đất
nhỏ được san, bạt và đắp nối liên kết với nhau để tạo thành nền, có xu
hướng dốc dần về phía Đông, phía Nam.
2.1.2. Di tích kiến trúc thời Lý:
Di
tích kiến trúc thời Lý đựoc phát hiện gồm có đường móng sành, các móng
trụ kiến trúc cũng được làm bằng mảnh sành và mảnh bao nung và nền sân.
- Đường móng rải mảnh sành:
Đường
móng rải sành xuất hiện tại hố H4, H9, hố 10 Bắc và hố 10 Nam chạy dài
theo hướng Bắc Nam, nằm trong lớp văn hoá Lý - Trần. Đợt di dời đã phát
hiện được gần như toàn bộ móng nhà đầm bằng đất và mảnh sành của ngôi
nhà có bố cục hình chữ Công thời Lý.
Về cấu trúc,
đường móng sành rộng trung bình khoảng 0,60m, và được dải bằng nhiều
lớp đất sét đầm nện với nhiều lớp mảnh sành thời Lí. Đây là móng của
ngôi nhà có quy mô lớn, bố cục hình chữ Công thời Lý.Trong và ngoài nhà,
chỉ tính những trụ móng đã phát hiện đựơc, đã có tới 46 trụ móng làm từ
mảnh sành và trụ móng làm từ mảnh bao nung . Móng của ngôi nhà có tổng
chiều dài là 39m, rộng nhất 22,65m, chia làm 3 phần:
- Nhà ngang phía Nam: chiều Bắc Nam 22,65m, chiều Đông Tây là 8,8m - 9m.
- ống muống: là bộ phận kiến trúc nối 2 ngôi nhà ngang với nhau, chiều Bắc Nam 13,10m - 13,50m, chiều Đông Tây đến 7,20m - 7,80m.
Nhà ngang phía Bắc:chiều dài Bắc Nam là 16,50m, chiều Đông Tây do bị mất nên có thể tham khảo chiều Đông Tây của nhà ngang phía Nam.
Ngoài ngôi nhà này còn phát hiện được 1 kiến trúc nhà khác có trụ móng bằng sỏi, phân bố ở các hố 10 Nam, hố 7, hố 6.
Trên
mặt móng sành, một đôi chỗ vẫn còn sót lại những viên gạch bìa hình chữ
nhật được xây nghiêng hoặc xếp nằm có lẽ là để bó nền nhà.
- Các móng trụ bằng mảnh sành:
Bên
trong và ngoài đường móng sành đã tìm được 46 móng trụ sành và bao
nung, cơ bản trụ có dáng hình vuông (90cm x 90cm), cũng có móng trụ gần
hình chữ nhật, (116cm x 85cm), có móng trụ có kích thước 90cm x 80cm.
Các móng trụ đặt khá ngay ngắn, quy chỉnh.
- Nền sân :
Nền
sân phía Đông còn tương đối nguyên vẹn, được đắp bằng đất sét, bên trên
có dấu tích lát gạch hình chữ nhật hoặc gạch vuông. Trên sân nền có dấu
tích vật liệu kiến trúc đổ xuống và gạch lát trên sân bị đào dỡ.
Nền
sân phía Tây, lớp dưới được đầm nện các mảnh sành, mảnh gốm men và vật
liệu kiến trúc thời Lý. Lớp nền bên trên cũng được đầm nện và lát bằng
các loại vật liệu kiến trúc thời Trần và Lê sơ.
Như vậy ở sân nền phía Tây lớp dưới thuộc thời Lý, lớp trên được thời Lê tận dụng lại.
Trừ phần phía trên của sân nền phía Tây, toàn bộ các dấu tích còn lại được xác định niên đại thuộc thời Lý vì các lý do như sau:
- Về tầng văn hóa: Các dấu tích này ở lớp sâu nhất.
- Về kỹ thuật và vật liệu xây dựng:
Về mặt kỹ thuật tại đường móng chạy dài bằng sành và móng trụ bằng
sành, mảnh bao nung, các kết cấu tương tự như ở đây đã được khảo cổ học
xác nhận thuộc thời Lý ở khu vực đàn Xã Tắc, khu Hoàng thành Thăng Long
tại 18 Hoàng Diệu. Các mảnh sành, mảnh gốm men và vật liệu xây dựng đều
có đặc trưng điển hình thuộc thời Lý.
2.1.3. Di vật tiêu biểu thời Lý:
Đợt khai quật năm 2007 và 2008 tìm thấy 214.521
di vật các loại như mảnh gạch ngói, gốm men Việt Nam và Trung Quốc, đồ
sành, vật liệu trang trí kiến trúc như: lá đề trang trí rồng, phượng;
gạch lát nền trang trí hoa cúc, hoa mai, trong đó di vật thời Lý chiếm số lượng lớn, chủ yếu là đồ sành và vật liệu kiến trúc.
+ Vật liệu kiến trúc:
- Gạch bìa:
màu đỏ, chất liệu mịn, độ nung cao, kích thước: 38,5cm x 19cm x 5cm;
37,6cm x 19,5cm x 4,5cm. Nhiều viên còn nằm nguyên vị trí bó móng nền
nhà chữ Công. Gạch bìa có 2 loại: Loại không trang trí, không có chữ và
loại ở mặt phải in nổi 2 hàng chữ Hán theo chiều dọc: “Lý Gia đệ tam đế
Long Thuỵ Thái Bình tứ niên tạo” (năm 1057).
-Gạch vuông lát nền trang trí cúc đây hình sin, cuốn thành những đường tròn nổi.
- Ngói trang trí lá đề: Có
2 loại : Lá đề cân và lá đề lệch trang trí rồng và phượng. Diềm lá đề
tạo các ngọn lửa rõ ràng, chi tiết. Giữa lá đề trang trí hai hình chim
phượng, có 1 hoặc 2 chân, hoặc trang trí hình 2 con rồng, 4 con rồng ở
tầng trên và tầng dưới cùng nâng ngọn lửa thiêng. Các chi tiết tỷ
mỉ, tinh tế mang phong cách thời Lý như đã thấy ở nhiều di tích thời Lý
khác. Cuống lá đề lệch chủ yếu là hình mây 3 chẽ cong mềm mại, ôm lấy
viên ngọc báu đang toả nhiều quầng sáng.
Đặc biệt là loại lá đề hình ngọn lửa có niên đại Lý sớm rất điển hình của di tích này.
- Ngói lợp:
Ngói ống dài 35cm, đầu ngói 16cm có in nổi hình hoa sen 2-3 lớp cánh,
có loại trên lưng ngói gắn lá đề cân trng trí rồng, phượng.
- Đầu chim phượng:
Kích thước khá lớn, dài 50cm, rộng 24cm, dày 23cm. Mỏ phượng to khỏe
ngậm ngọc mắt thon dài, lông mày cong, má mang xoáy cong, các chi tiết
trang trí tỉ mỉ, tinh tế.
-Đầu quái thú:
Màu
đỏ tươi, mắt lồi, gờ mày cao, nhe rănh, mồm há rộng, diềm các bộ phận
như lông mày, mồm, mang trang trí nổi băng soắn hình dấu hỏi tinh tế.
- Đồ gốm sứ:
Đồ gốm sứ thế kỉ XI-XIII có các dòng men: Men trắng, gốm men ngọc, gốm hai màu men (Trong men trắng, ngoài men nâu).
-Gốm men trắng : Chủ yếu là bát men trắng trang trí văn chải răng lược, quả thuỷ ba với nhiều lớp sóng nước, trang trí tinh tế.
- Gốm Men ngọc:
Gồm có bát men ngọc trang trí cúc dây hình lá dương xỉ, đài sen hình lục lăng.
- Gốm hai màu men (Trong men trắng, ngoài men nâu):
Tiêu biểu là 2 chiếc đĩa nông lòng, dáng hình nón, chân đế gần đặc, lòng in nổi cúc dây lá giống với lá cây dương xỉ.
- Đồ Sành :
Chiếm
số lượng nhiều nhất, tập trung ở đường móng và trụ sành, hầu hết đều
không trang trí hoa văn. Một số vò gốm cùng loại đã phát hiện được ở đàn
Xã Tắc và hoàng thành Thăng Long.
Những
dấu tích kiến trúc và di vật khai quật được ở di tích đàn Nam Giao mà
chúng tôi đã trình bày ở trên, đã cho thấy giữa tài liệu thành văn và
tài liệu khảo cổ học hoàn toàn khớp nhau về sự có mặt của đàn Nam Giao ở
khu vực này. Thậm chí ở mức độ nào đó, qua quy mô của ngôi nhà hình chữ
Công ở khu vực phụ, cùng với sự trang trọng, cầu kì trong vật liệu và
trang trí kiến trúc, đã cho thấy thời Lí đã rất chú trọng tới tế Nam
Giao.
2.2. Đàn Nam Giao Thăng Long thời Trần:
Sử sách nước ta đều cho rằng thời Trần không có tế Nam Giao. Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí đã dẫn lời của Ngô Ngọ Phong
“ Từ nhà Trần về trước, không làm lễ Giao tế Trời, lễ ý văn vật thiếu
sót nhiều vậy”. Nhưng khi chép về việc Hồ Hán Thương tổ chức tế Nam Giao
thì lại viết là: ” Theo lệ cũ, cứ 3 năm một lần đại lễ”. Trong
thực tế, tại đây đã phát hiện được một số dấu tích của kiến trúc thời
Trần, cùng khá nhiều vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc như tượng
uyên ương, lá đề trang trí rồng, phượng. Điều này đã cho thấy thời Trần
vẫn xây dựng và củng cố đàn Nam Giao. Điều đó cũng có nghĩa là tế Nam
Giao vẫn được tổ chức. Tuy nhiên, cũng như thời Lí, những nghi lễ về tế
Nam Giao lại không được ghi chép, khiến cho các sử gia phong kiến đều hiểu không đúng sự thật.
2.2.1. Di tích kiến trúc thời Trần:
Đó là dấu tích các móng trụ bằng sỏi và con đường đi rải ở các hố H1, H2, 6, 7 và H1.
- Các móng trụ sỏi:
ở
các hố H1, H6, H7 và hố 10 Nam các móng trụ sỏi có dáng hình vuông,
kích thước 140cm x 140cm, cũng có trụ nhỏ hơn một chút: 112cm x 120cm.
Các trụ móng ở hố 10 Nam chồng lên trên đường sành thời Lí. Các móng trụ
ở hố H6 và H7 cùng với các trụ ở hố 10 Nam là của một kiến trúc khác dịch lui về phía Nam
so với móng nhà chữ Công. Đây là một kiến trúc khá lớn, nhưng rất tiếc
là không thể khai quật được bởi vì một toà nhà hiện đại lớn nằm đè lên
trên. Các móng trụ sỏi này đều được đầm nện hết sức chắc chắn: bên dưới
có các khối đá xanh, bên trên là sỏi nhồi chặt.
Các móng trụ ở H1 đều bị san ra làm nền nhà và chưa tìm thấy các mối liên hệ rõ ràng vì dấu tích còn lại quá ít.
- Dấu tích đường rải sỏi:
Dấu
tích con đường này tìm thấy ở hố H12, đè lên lớp vật liệu kiến trúc
thời Lí ở bên dưới. Đường chạy theo hướng Đông Tây, phần đã xuất lộ dài
15m rộng 2,30m đến 2,45m, dày 20cm-27cm. Một nền lát gạch thời Lê và
những ngôi mộ thế kỉ XIX- XX đã cắt nát con đường này. Các dấu tích trên
đây được xác định thuộc thời Trần vì tại những hố này đã phát hiện được
khá nhiều vật liệu kiến trúc, trang trí kiến trúc và đồ gốm thời Trần.
2.2.2. Di vật tiêu biểu thời Trần:
+ Vật liệu kiến trúc:
Vật
liệu kiến trúc thời Trần cũng rất phong phú, gồm có ngói sen, ngói mũi
vát, lá đè cân và lệch, gạch lát nền trang trí hoa chanh, trang trí hoa
cúc nhiều lớp cánh trong hình lục lăng, các góc có các đường chéo nổi,
khi ghép nhiều viên lại sẽ có một băng hoa cúc liên hoàn như đã thấy ở
Li Cung, thành Nhà Hồ, đàn Nam Giao Thanh Hoá..., gạch bìa màu đỏ độ
nung cao có các đường chải trên cạnh và mặt gạch, gạch lát nền hình
vuông không trang trí hoa văn ngói ống trang trí hoa sen...
Đặc biệt là sự có mặt của
loại
gạch đặc trưng của thời Trần, đó là gạch Vĩnh Ninh Trường. Tượng uyên
ương và lá đề trang trí rồng , phượng cũng chiếm số lượng nhiều hơn thời
Lí và có mặt ở khá nhiều hố.
+ Đồ gốm sứ :
Chiếm
số lượng chủ yếu không phải là đồ gốm sứ thời Lí mà là là đồ gốm sứ
thời Trần với khá nhiều dòng gốm như gốm men nâu, men ngọc, men ngà, gốm
lam mờ, và gốm hoa nâu, chủ yếu là mảnh thạp, lư hương, bát đĩa..
2.3. Đàn Nam Giao Thăng Long thời Lê:
Đàn Nam Giao Thăng Long thời
Lê đã được một số tư liệu ghi rõ thời gian xây dựng và sửa chữa qua các
thời Hồng Đức (1470-1497), Quang Thuận (1460-1469), Quang
Hưng(1578-1599), Cảnh Trị (1663-1671). Tư liệu thành văn ghi chép về đàn
Nam Giao thời Lê khá nhiều, tài liệu khai quật khảo cổ học năm
2007-2008, về mặt di vật cũng phù hợp. Nhưng về kiến trúc thì đàn đã bị
phá và đào xới nhiều lần nên chỉ còn lại một số dấu vết kiến trúc như
trụ móng, chân tảng đá, nền sân lát gạch, cột cờ.
2.3.1. Các dấu tích kiến trúc thời Lê:
- Móng trụ:
Một chiếc có dáng hình tròn (hố H6). Vật liệu xây dựng móng trụ là các
mảnh ngói ống, ngói âm dương màu xám, nâu đỏ. Có 2 nền sân lát gạch.Một
nền lát toàn bộ bằng gạch vồ, nền còn lại lát bằng nhiều loại gạch khác
nhau.
- Sân gạch vồ:
Nền
sân lát gạch vồ thời Lê Trung Hưng nằm đè lên toàn bộ móng nhà chữ Công
ở hố 10. Sân này đã bị phá, chỉ còn lại một số mảng. Đây là một sân
rộng, khoảng 30m x 40m, đầu phía bắc của sân có một khối trụ gạch vồ
lớn: Cạnh đáy (theo chiều Bắc- Nam)
dài 1,33m, chiều Đông- Tây 1,62m. Chiều cao của khối là 0,80m, khối
được xây bằng đất sét mịn, đất miết mạch dày 0,03 - 0,04m. Khoảng giữa
của trụ gạch có tạo một khe theo chiều Bắc- Nam rộng 0,21m, sâu 0,40m, ở mặt phía Tây cũng tạo một khe. Trụ này có thể là cột cờ.
- Sân lát bằng nhiều loại gạch khác nhau:
Nền
sân gạch nằm ở hố H11 và H12 được lát bằng gạch vồ và gạch bìa, gạch
múi bưởi, gạch vuông nhiều thời được tận dụng lại, thậm chí cả mảnh mái
tháp đất nung. Gạch vồ có nhiều cỡ khác nhau, cỡ to 43cm x 19cm x 12cm ;
cỡ nhỏ 34cm x 16cm x 9cm. Các viên gạch được xếp nằm theo hướng Bắc
Nam. ở một vài vị trí, nền được xếp chen lẫn các viên gạch hoa lát nền
thời Lý và thời Trần. Một viên còn lành nguyên in nổi hình hoa mai tròn.
Viên gạch này giống hệt với các viên gạch lát ở di tích Li Cung của nhà
Hồ ở Thanh Hóa.
Các
vết tích kiến trúc này được xác nhận khoảng thế kỷ XVII thời Lê Trung
Hưng vì kiến trúc nằm ở lớp cao nhất của tầng văn hóa. Các vết tích này
đều nằm đè lên dấu tích kiến trúc Lý-Trần. Vật liệu xây dựng là các loại
gạch điển hình của thời Lê (gạch vồ) và thỉnh thoảng có chỗ sử dụng lại
gạch Bắc thuộc, gạch thời Lý, gạch Trần.
Nền
sân này cũng bị phá và chia cắt thành nhiều mảng do những ngôi mộ thời
Nguyễn và mộ thế kỉ XX chôn vào, cùng với việc cạy gạch ở nền sân để kè
bao xung quanh những mộ.
Ngói
âm dương tráng men vàng, đầu ngói in nổi rồng uốn cong 4 góc hình sao,
trang trí diềm mái men vàng các loại phát hiện được nhiều nhất tại khu
vực này.
2.3.2. Di vật tiêu biểu thời Lê sơ và Lê Trung Hưng:
- Vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc :
+ Ngói:
Gồm có ngói âm dương tráng men vàng thế kỉ XV-XVI, ngói âm dương màu
xám từ thế kỉ XVthế kỉ XVII, XVIII, đầu ngói trang trí rồng hoặc hoa
cúc.
+ Gạch: gạch vồ xám: 43cm x 19cm x 12cm; 42cm x 21cm x 12cm; 34cm x 16cm x 9cm.
+ Trang trí diềm mái : có 2 loại, loại tráng men vàng và loại không có men, màu xám
+ Đầu tượng nghê-sấu:
có 5 con bằng đất nung màu xám đen, trong đó có 3 con còn tương đối
nguyên vẹn. Tượng lớn: 45cm x 24cm x 15cm, tượng nhỏ: 39cm x 24cm x
11cm. Ngoài ra còn khá nhiều di vật khác nữa mà trong khuôn khổ báo cáo này chúng tôi không thể trình bày hết được.
Theo Lê Quý Đôn (Kiến văn tiểu lục,
bản dịch NXB sử học năm 1962) thì các đàn tế lễ theo thể chế định trong
thời Hồng Đức gồm: điện Chiêu Sự 3 gian, 2 chái, điện Canh y, trai
cung, phòng bếp, phòng ăn chay, kho tế khí, cửa giữa, cửa tả, cửa hữu và
hai cửa ngoài.
Như
vậy chắc chắn trong thời Lê sơ điện Nam Giao đã được sửa lại quy mô
ngay trên nền móng cũ của đàn Nam Giao thời Lý và thời Trần.
Thời Lê Quang Thuận sửa lại chính điện 3 gian, đông vu và tây vu mỗi bên 7 gian.
Thời Lê Quang Hưng dựng thêm điện Chiêu Sự.
Thời Lê Cảnh Trị(1664) sửa lại điện Nam Giao. Bia Nam Giao mô tả đây là lần sửa chữa quy mô kiến trúc điện Nam Giao rất rộng.
Tất
cả các nguồn tư liệu đã cho biết điện Nam Giao trong thời Lê được xây
dựng và sửa chữa rất lớn. Riêng năm 1664, theo văn bia thì việc xây dựng
rất quy mô hoành tráng.
Tuy nhiên dấu tích trên thực địa thì các dấu tích kiến trúc thời Lê hiện còn không nhiều lắm.
Hiện
chưa tìm thấy dấu tích kiến trúc thời Lê sơ mà chỉ tìm thấy các di vật
thời Lê sơ như: ngói ống tráng men vàng có trang trí rồng năm móng, dấu
tích các lần sửa chữa của năm Quang Thuận và Quang Hưng cũng không rõ
ràng lắm. Dấu tích còn khá rõ, có thể của lần sửa chữa năm 1664 qua nền
gạch vồ (hố H11 và H12), các di vật ngói, cặp tượng nghê-sấu trang trí
trên nóc của kiến trúc.
Việc
dấu tích kiến trúc điện Nam Giao thời Lê được xây dựng quy mô còn lại
ít hơn thời Lý, có thể thấy rõ vì di tích ở gần lớp đất mặt, lại bị gặp
nhiều biến cố như: nhà Nguyễn dỡ bỏ, hỏa tai, mộ táng thời Nguyễn và các
công trình thời cận hiện đại san bạt xây dựng mới.
Số phận của đàn Nam Giao Thăng Long dưới thời Tây Sơn và thời Nguyễn ra sao đã được chúng tôi nói đến ở phần trên.
Như
vậy, chính thức đàn Nam Giao Thăng Long bị phá hủy hoàn toàn sau năm Tự
Đức thứ 11, phải mãi đến năm 2006 được khảo cổ học phát lộ ra.
3. Vị trí của các dấu tích kiến trúc đã xuất lộ trong cấu trúc tổng thể đàn Nam Giao
Đây là vấn đề rất khó bởi vì không có tài liệu ghi chú sơ đồ cấu trúc của đàn Nam Giao.
Cấu trúc đàn Nam Giao chỉ được biết rất chung chung trong thời Lê qua ghi chép của Kiến văn tiểu lục, Vũ Trung tùy bút, Đại Nam nhất thống chí và Nam Giao điện bi ký.
Theo đó, ta thấy ở đây có đàn và các kiến trúc như sau:
- Điện Chiêu Sự 3 gian, 2 chái.
- Nhà bên cạnh về phía Đông và phía Tây 2 dãy đều có 1 gian, 2 chái.
- Đông vu và Tây vu 2 dãy, mỗi dãy 7 gian.
- Cửa điện Chiêu Sự 3 gian.
- Điện Canh y 1 gian, 2 chái.
- Trai cung 1 gian, 2 chái.
- Nhà bếp 3 gian.
- Phòng ăn chay 1 gian.
- Cửa giữa 3 gian, cửa tả và hữu 1 gian.
- Hai cửa ngoài đều 3 gian, bốn bên đắp tường.
Cấu trúc này có thể thay đổi chút ít theo thời gian nhưng về cơ bản có lẽ nó tồn tại suốt thời Lê.
Như
vậy, chúng ta thấy cấu trúc của đàn Nam Giao rất phức tạp và lớn rộng.
Tại hiện trường chúng ta mới đào một diện tích rất nhỏ. Các di tích này
lại chồng chéo và bị phá hủy nặng nề do việc xây dựng nhà máy, việc xây
cất mộ táng do đó rất khó nhận biết được vị trí của nó trong cấu trúc
tổng thể của đàn Nam Giao.
Hiện nay, chúng ta chỉ có thể nhận định bước đầu là đã chắc chắn tìm thấy một bộ phận của dấu tích đàn Nam Giao qua các thời Lý-Trần-Lê.
Bộ phận dấu tích này một phần thuộc về các kiến trúc co mái, một phần thuộc về sân nền của đàn Nam Giao
Các bộ phận đó thuộc vị trí nào và là các kiến trúc nào của đàn Nam Giao thì hiện nay chưa thể xác định được
4. Giá trị của di tích đàn Nam Giao
Cũng
như di tích đàn Xã Tắc, sau hơn một thế kỷ bị mai một chúng ta mới có
cơ may chứng kiến được phần nào dấu tích của đàn Nam Giao. Giá trị của
di tích đàn Nam Giao là rất lớn.
Bia Nam Giao ghi rõ:
“ Nơi tế Giao sao lại gọi là điện Chiêu Sự ?
Bởi
vì đây thờ Thượng Đế vậy. Làm sáng tỏ lễ tế Giao thì việc trị nước rõ
như coi trên bàn tay … Chọn góc mé Nam thành, xây điện Chiêu Sự đàn Nam
Giao, chính là nơi muôn loài sinh trưởng … Điện này không những chỉ tỏ
lòng tôn kính của đương thời, mà còn muốn truyền ngàn đời sắp tới … Phúc
trời cho, lộc trời dồi dào, thọ trời cho, tuổi trời khỏe mạnh. Phúc lộc
trăm nghìn, con cháu nghĩa cử, nghiệp đế vương muôn đời giữ mãi mệnh
trời”
Đọc
mấy dòng ghi chú bia Nam Giao ta đã thấy rõ giá trị của di tích. Cũng
qua nghiên cứu các dấu tích của đàn Nam Giao chúng ta còn thấy rõ thêm
lịch sử Thăng Long Hà Nội trên các phương diện kiến trúc, nghệ thuật, mỹ
thuật, đời sống văn hóa tâm linh của Thăng Long-Đại Việt dưới các thời
Lý-Trần-Lê.
Đối
với kinh thành Thăng Long, đàn Nam Giao và lễ tế giao không hoàn toàn
mang tính cung đình, là một trọng lễ đầu xuân cầu cho vương triều, nhân
dân và đất nước. Nam Giao là một điểm quan trọng nằm trong trục Bắc Nam
mà hoàng thành là trung tâm, trên trục này, có thể góp phần xác định hệ
thống đàn tế, đàn thờ, đàn coi thiên văn và các kiến trúc khác bao quanh
hoàng thành Thăng Long.
Qua
đây chúng ta cũng có thêm các di tích, di vật quý cho việc trưng bày và
phát huy giá trị của đàn Nam Giao và hoàng thành Thăng Long, hướng tới
đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội
5. Kiến nghị
Đây
là một di tích quan trọng ở giữa lòng thủ đô, trên một diện tích rất
nhỏ các di tích đã xuất hiện khá phong phú và quy mô, để có các phương
hướng cụ thể và giải pháp hợp lý Viện Khảo cổ học và Ban quản lý di tích
và danh thắng Hà Nội trân trọng kiến nghị với các cấp có thẩm quyền một
số điểm như sau:
1.
Cho phép khẩn trương tiếp tục sắp xếp chỉnh lý và biên soạn, củng cố tư
liệu một cách hoàn chính để in ấn phẩm về đàn Nam Giao - một trong
những di tích quan trọng trong tổng thể kiến trúc cung đình của kinh
thành Thăng Long..
2. Hoàn thiện hồ sơ để xếp hạng di tích đàn Nam Giao.
3. Chỉ đạo xây dựng các phương hướng xử lý bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu di tích kỷ niệm đàn Nam Giao./.
Tài liệu dẫn
1. Phan Huy Chú 1992 : Lịch triều hiến chương loại chí, phần Lễ nghi chí NXB KHXH Hà Nội 1992, tr.29-34.
2. Phạm Đình Hổ 1972: Vũ Trung tuỳ bút, NXBVăn Học, Hà Nội,Tr 70-72.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn
- Khâm định việt sử thông giám cương mục chính biên (Bản Chế bản điện tử, quyển 4, tr. 162
- Đại Nam nhất thống chí, tập 3, NXB Thuận Hoá năm 1996, tr.193-194.
4. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ (chế bản điện tử), quyển 3:133, quyển 4, Tr.142.
5. Nam Giao điện bi ký.
6. Lê Quý Đôn 1962 :Kiến văn tiểu lục, NXB Sử học, Hà Nội.
7. Phan Phương Thảo 2006: Một số di tích lịch sử văn hoá Hà Nội, tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 7, Hà Nội, tr.28 - 35.
|
|
Trần Anh Dũng | |
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ