Quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế… 1 người An Nam
23/1/2016
                                 Súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng (Ảnh minh họa: Internet)
Thuốc súng là một trong tứ đại phát minh được Trung Quốc sử dụng cho 
nhiều loại vũ khí khác nhau. Nhưng người đưa súng lên một tầm cao mới để
 trở thành thứ vũ khí thần kỳ “đệ nhất thiên hạ” lại không phải là người
 Trung Hoa, mà là một người An Nam tên là Hồ Nguyên Trừng.
Hồ Nguyên Trừng (còn gọi là Lê Trừng khi ông sống ở Trung Quốc) là con 
trai cả của vua Hồ Quý Ly và từng giữ chức Tả tướng quốc dưới triều nhà 
Hồ. Nhắc đến ông là nhắc đến một công trình sư lỗi lạc, một thiên tài 
quân sự kiệt xuất, và một nhà văn lưu vong luôn hướng về cố quốc phương 
Nam.
Khó có thể miêu tả cho thấu đáo về Hồ Nguyên Trừng chỉ với vài dòng ngắn
 ngủi. Này đây thành Tây Đô – thành lũy bằng đá độc đáo và đồ sộ từng 
được ông chỉ huy xây dựng; này đây cổ lâu thuyền – loại thuyền chiến lớn
 có hai tầng do ông chế tạo để nghênh chiến với quân giặc xâm lăng; này 
đây phòng tuyến chống giặc dài 400 km – từ yếu huyệt Đa Bang (Ba Vì) tới
 sông Đà, sông Hồng, đến sông Ninh, sông Luộc, cho đến sông Thái Bình và
 rồi kết thúc ở Bình Than; và này đây những dây xích lớn chăng qua nhiều
 khúc sông hiểm trở để mai phục quân địch, khiến cho thủy binh ngoại 
bang phải nhiều phen khiếp đảm… Đó chỉ là một vài ví dụ cho thấy tài 
năng lỗi lạc của vị tướng Lê Trừng.
Và tất nhiên, bấy nhiêu đó vẫn chưa phải là tất cả.
Trong bộ bách khoa “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn từng nhắc đến một tình tiết, rằng: “quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng”. Chi tiết này cũng được nhà sử học Trương Tú Dân khẳng định khi ông nghiên cứu các sách sử đời Minh.
Vậy, tại sao quân Minh của đất nước Trung Quốc hùng mạnh khi đó lại phải làm lễ tế Lê Trừng – một người An Nam?
Hồ Nguyên Trừng và Thần cơ thương pháo
Trước hết, phải nói rằng thành tựu lớn nhất và được người đời nhắc đến 
nhiều nhất của Hồ Nguyên Trừng chính là súng thần cơ, còn được biết đến 
là “Thần cơ thương pháo”.
Súng thần cơ được trưng bày tại Viện Bảo tàng Lịch sử Quân đội, Hà 
Nội (Ảnh đăng lại từ Cục văn thư và lưu trữ nhà nước -archives.gov.vn)
Ngay từ khi còn là vị tướng dưới triều nhà Hồ vào đầu thế kỷ 15, phải 
đối mặt với hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc, Hồ Nguyên Trừng đã gấp rút 
tổ chức các xưởng đúc súng lớn. Ông đúc kết từ những kinh nghiệm cổ 
truyền, và bằng một trí tuệ phi thường, ông đã nghiên cứu, cải tiến, và 
rồi chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá sấm sét, trong đó nổi bật
 nhất chính là Thần cơ thương pháo.
Mặc dù Đại Việt sử ký toàn thư không ghi chép nhiều về súng thần cơ của 
Hồ Nguyên Trừng, nhưng phát minh kiệt xuất này đều được các sách sử thời
 Minh ca ngợi là “súng thần”, “pháo thần”, và tôn vinh đó là thứ vũ khí 
“nhất thiên hạ” mà Trung Quốc xưa nay “chưa từng có”.
Ảnh trái: Ngự Lâm Quân của nhà Minh với những khẩu súng hỏa mai từ 
khoảng thế kỷ 14; Ảnh phải: Một loại súng của nhà Minh vào thế kỷ 14, 
trước thời Hồ Nguyên Trừng. Khi đó, súng bắn là hỗn hợp lửa và than củi 
cháy dở (Ảnh: Wikipedia)
Có thể nói, súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng là vượt trội hơn hẳn so với
 các loại hỏa khí của nhà Minh khi đó. Trong giới hạn bài viết này, xin 
phép không đi sâu mô tả và so sánh từng loại vũ khí trước thời Hồ Nguyên
 Trừng, mà chỉ tập trung vào súng thần cơ – vốn là phát minh vĩ đại mà 
tướng Trừng để lại cho hậu thế tới ngày hôm nay.
Sau thất bại của cuộc chiến Minh-Đại Ngu (1406-1407), nước Việt bị nhà 
Minh cai trị. Cả Hồ Nguyên Trừng cùng với cha là Hồ Quý Ly và em trai là
 vua Hồ Hán Thương, cũng như rất nhiều nhân tài đất Việt khác, đều bị 
bắt đưa về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc).
Quân Minh thu được nhiều súng thần cơ – thứ vũ khí ưu việt hơn hẳn súng 
nhà Minh, khiến quân lính phải nhiều phen kinh hoàng, khiếp đảm – lại 
bắt được cả nhà sáng chế, bèn tìm cách buộc Hồ Nguyên Trừng phải phục vụ
 triều đình trong việc chế tạo loại súng này.
“Quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng”
Lịch sử nhà Minh đã ghi lại nhiều cuộc thử nghiệm của Hồ Nguyên Trừng về
 các loại súng đạn. Công lao lớn nhất của ông là biến súng trở thành thứ
 vũ khí có sức công phá mạnh, trở thành “quả đấm công thành”, lại dễ di 
chuyển và dễ dàng sử dụng. Ban đầu ông chỉ huy việc chế tạo và đúc súng 
mới, sau đó, các công nghệ chế tác của ông được nhà Minh tập hợp thành 
binh thư “Thần cơ thương pháo pháp”, coi đó như một tác phẩm kinh điển 
về súng.
Một khẩu pháo giống với Thần cơ thương pháo. Trong ảnh là Thần công 
bằng đồng ở Bảo tàng Musée de l’Armée, Pháo chế tạo thời Trung Cổ (Ảnh: 
Rama, Wikipedia)
Sách “Việt kiệu thư” của Lý Văn Phượng đời Minh viết: “Súng thần cơ 
có được gần đây, dùng sắt làm tên, bắn đi bằng lửa, đi xa ngoài trăm 
bước, nhanh chóng kỳ diệu như thần, nghe thấy tiếng là lửa đã đến. Thời 
Vĩnh Lạc (1403-1424) khi bình Giao Chỉ, thứ mà người Giao Chỉ chế tạo 
càng tinh xảo” (Giao Chỉ là tên gọi mà người Trung Quốc dùng để chỉ nước Việt ta ngày xưa. Người Giao Chỉ cũng được gọi là người An Nam).
Súng thần cơ của Lê Trừng nhanh chóng trở thành vũ khí chiến lược, giúp 
nhà Minh bảo vệ bờ cõi. “Trấn trạch ký văn” của Vương Ngao ghi chép 
rằng: “Khi Thành Tổ thân chinh Mạc Bắc (chỉ Mông Cổ) dùng súng thần 
An Nam vừa bắt được, kẻ địch một người tiến lên, lại hai người nữa chết 
theo, đều trúng súng (đạn) mà chết”; còn theo “Minh Hiến Tông thực 
lục” thì “đánh thắng địch là dựa vào súng thần, phép lấy được thời Vĩnh 
Lạc, Tuyên Đức (1426-1435), thứ mà kẻ địch sợ nhất”. “Việt quốc đại 
vương” của Thẩm Đức Phù cũng từng viết rằng: “Triều ta dùng hoả khí 
chống địch là loại chiến cụ hàng đầu xưa nay mà sự nhẹ nhàng thần diệu 
của nó thực là mới lấy được khi Văn Hoàng đế bình Giao Chỉ, tức dùng Lê 
Trừng, con vua nước Việt, tướng quốc ngụy làm quan bộ Công chuyên trách 
đôn đốc chế tạo, truyền hết tài năng”.
Dù phát minh từ thế kỷ 15, nhưng các loại vũ khí của tướng Trừng vẫn 
được trọng dụng mãi cho đến nhiều thế kỷ sau đó. Đời Thiên Khải 
(1621-1627), trận đồ kỷ yếu do Tào Phi vẽ đã ca ngợi như sau: “Đây là
 thứ lấy được khi bình An Nam, dưới tiễn có nẩy gỗ, và đặt các thứ đạn 
chì, chỗ kỳ diệu là dùng gỗ thiết mộc, nặng mà mạnh, một phát đi xa ba 
trăm bước”.
Nhờ những đóng góp đó mà sau khi qua đời, Hồ Nguyên Trừng được triều 
đình nhà Minh tôn vinh là “thần hỏa khí”, coi trọng ông như một trong 
những sứ giả thánh thần của binh pháp. Sau này, trong các ngày lễ tế 
hoặc trước khi bắn đại bác, quân Minh đều phải cúng tế Thần Công, và sau
 nghi thức ấy là lễ tế sứ giả của thần thánh, tức chính là lễ tế Hồ 
Nguyên Trừng.
Nếu xét rằng súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng ra đời giữa lúc thế giới 
vẫn còn thai nghén về súng đại bác thì đây quả thật là một sáng chế vĩ 
đại. Tuy nhiên, có thể có người cho rằng phục vụ ngoại bang là một việc 
làm đáng hổ thẹn, từ đó mà chê trách Lê Trừng; cũng có người ngẫm nghĩ 
đến cái phận xa xứ và áp lực phải bảo vệ cha và em trai đang nằm trong 
tay vua Minh, mà thấy cảm thương cho một tài năng đành bất lực; lại cũng
 có người tìm đến tác phẩm “Nam Ông mộng lục” của Hồ Nguyên Trừng mà tin
 tưởng vào lòng yêu nước và hướng về cội nguồn của một “vị quan bất đắc 
dĩ” dưới triều nhà Minh, v.v.
Dẫu sao, lịch sử vẫn là lịch sử, chúng ta tôn trọng quá khứ, tôn trọng 
những gì đã qua với một cái nhìn khách quan, không phán xét. Cũng giống 
như sân khấu có vai chính thì cũng có vai phụ, thời thế có lúc thuận thì
 cũng có lúc nghịch, triều đại có lúc cực thịnh thì cũng có lúc suy tàn,
 và đời người có lúc uy danh lừng lẫy thì lại cũng có lúc “ba chìm bảy 
nổi chín lênh đênh”… Tất cả cái đã qua đều như sự vần xoay của tạo hóa, 
khó có thể đánh giá một quốc gia nào đó hay một nhân vật lịch sử nào đó 
sao cho được đạt lý, thấu tình. Vì vậy, trong hiểu biết hạn hẹp của 
người viết, chỉ xin kể đôi lời về một danh nhân người Việt – dẫu không 
thể cống hiến cho tổ quốc ở nửa cuối cuộc đời, thì vẫn để lại tiếng thơm
 nơi xứ người…
Hồng Liên
(Đại Kỷ Nguyên VN)
Nhãn: Lịch sử





0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ