Câu chuyện cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni và lời tiên tri cho thời đại chúng ta
Đức Phật, Người vốn là ai?
Ai có thể trở thành Phật? Chúng ta cùng xem câu chuyện cuộc đời của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, để hiểu rằng từ một vị hoàng tử dũng cảm rời bỏ
cuộc sống nhung lụa nơi hoàng cung, trải qua hành trình tìm kiếm sự giác
ngộ đầy khó khăn và gian khổ, cuối cùng thấy được chân lý vũ trụ và truyền bá Phật Pháp, để lại những dự liệu tiên tri cho tới tận thời đại chúng ta ngày nay…
Giấc mơ báo trước sự đản sinh của một vĩ nhân
Tại vương quốc Ca Tỳ La Vệ
(Kapilavattsu), ngày nay thuộc nước Nepal, vào thế kỷ thứ 6 trước Công
nguyên, hoàng hậu là Ma Da (Mahamaya) là vợ đức vua Tịnh Phạn
(Suddodana), khi ấy sắp tới ngày sinh hạ đứa con đầu lòng, đã có một
giấc mơ báo điềm đặc biệt.
Trong mơ, bà thấy rõ ràng một luồng ánh sáng trắng mỹ diệu chiếu rọi vào bà, và từ trong luồng sáng xuất hiện một con voi trắng vô cùng thánh khiết với sáu chiếc ngà. Con voi bước đến gần rồi hòa tan vào cơ thể bà. Bà đã kể lại giấc mơ với nhà vua ngay khi tỉnh lại và ngay sáng hôm đó, nhà vua cho triệu tập các nhà hiền triết. Họ cho biết rằng đó chính là điềm lành báo hiệu rằng hoàng hậu sẽ sinh ra một vĩ nhân.
Nhà vua đã vô cùng chấn động. Theo tục
lệ thời đó, hoàng hậu Ma Da sẽ di chuyển về nhà mẹ đẻ để sinh nở. Đó là
một ngày trăng tròn theo lịch Ấn Độ. Khi dừng chân để nghỉ ngơi tại vườn
Lâm Tỳ Ni, bà bất chợt trở dạ và thế là hoàng tử vương quốc Ca Tỳ La Vệ
đã hạ sinh đến cõi trần một cách nhẹ nhàng.
Một cơn mưa nhẹ sau đó đã gội rửa cho cả
người mẹ và đứa trẻ. Cùng ngày đó, bảy sinh mệnh khác cũng được xuất
sinh, lần lượt là cây bồ đề, công chúa Da Du Đà La (Yashodhara), con
ngựa Kiền Trắc (Kantaka), người đánh xe ngựa Sa Nặc (Channa), con voi
Kaludayi (người bạn thời thơ ấu của hoàng tử), và bảy kho báu vô chủ.
Hoàng tử nhỏ được đưa trở về kinh thành
ngay đêm hôm đó. Năm ngày sau, hoàng tử được đặt tên là Tất Đạt Đa
(Siddhartha), nghĩa là “người mà sẽ đạt được mục đích của mình.”
Rất nhiều nhà thông thái đã đến để gặp mặt và cầu chúc cho vị hoàng tử
mới sinh, trong số đó có A Tư Đà, vốn là thầy dạy học cũ của nhà vua và
là một người tu hành khổ hạnh đã đạt được nhiều thành tựu.
Nhà vua cảm thấy rất vinh dự bởi chuyến
thăm của đạo sỹ A Tư Đà (Asita), nên cho người mang đứa trẻ đến bên vị
đạo sỹ để đứa bé tỏ lòng tôn kính với ông. Ngay lập tức, A Tư Đà đứng
phắt dậy và nhận ra ngay những đường nét trên cơ thể hoàng tử báo hiệu
một khuynh hướng tâm linh và tôn giáo. Với năng lực siêu thường, ông
nhìn thấy sự vĩ đại trong tương lai của vị hoàng tử mới sinh và chào đón
cậu với những cái siết tay thật chặt.
Lời tiên đoán về cuộc đời tu hành của hoàng tử và sự cách ly khỏi thế giới đau khổ
Hoàng hậu Ma Da đột ngột qua đời 7 ngày
sau đó, để lại vị trí của bà cho người em gái Kiều Đàm Di
(Mahaprajapati), người sau này đã nuôi nấng hoàng tử với sự yêu thương,
chăm sóc hết mực. Khi Tất Đạt Đa tròn 12 tuổi, nhà vua đã cho gọi các
nhà hiền triết đến để dự đoán tương lai của hoàng tử. Họ đều nói rằng
hoàng tử Tất Đạt Đa sẽ quyết định theo lối tu hành khổ hạnh nếu cậu nhìn
thấy các dấu hiệu của lão, bệnh, tử hoặc gặp một nhà tu hành khổ hạnh.
Hoàn toàn không muốn con mình trở thành
người tu hành, nhà vua Tịnh Phạn muốn đã sắp đặt con đường để hoàng tử
nối ngôi trị vì vương quốc như một vị minh quân. Ông bèn cho canh gác
cung điện nghiêm ngặt và cấm sử dụng từ “chết” hoặc “khổ” trong cung, để
không tạo cho hoàng tử một khái niệm nào về sự đau khổ cõi trần thế.
Ông tách hoàng tử cách xa bất cứ điều gì có thể gợi đến cảm hứng tu
hành. Do đó, hoàng tử chỉ biết hưởng thụ cuộc sống nhung lụa trong cung.
Hoàng tử lớn lên và trở thành một người đàn ông mạnh mẽ, được rèn luyện
các kỹ năng chiến đấu và thành hôn với công chúa nước láng giềng là Da
Du Đà La vào năm 16 tuổi.
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên
Con người gắng sắp đặt mọi điều, nhưng ý trời cuối cùng rồi vẫn sẽ quyết định tất cả. Đó là điều chúng ta thấy được thông qua câu chuyện cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mặc dù bị cách ly nghiêm ngặt khỏi mọi điều có thể truyền cảm hứng tu hành, cuối cùng những gì vốn được sắp đặt cho tương lai của vị hoàng tử trẻ tuổi vẫn theo trình tự đến ngày hiển lộ…
Trong cuộc sống hoàng cung nhung lụa,
Tất Đạt Đa bắt đầu xuất hiện ước mong khám phá thế giới trần tục bên
ngoài cung cấm. Người đã quyết định thực hiện một chuyến đi thăm thú
vương quốc và thần dân của mình.
Không có lý do chính đáng nào để ngăn
cản nguyện vọng này, nhà vua đành chấp thuận và gắng bày xếp và chuẩn bị
trước hoàn hảo nhất. Ông cẩn thận lên kế hoạch chuyến đi và trang hoàng
mọi thứ trên lộ trình mà hoàng tử sẽ đi qua, biến tất cả thành hạnh
phúc, giàu có và đẹp đẽ. Những cảnh tượng xấu hoặc buồn khổ sẽ được loại
bỏ để ngăn không cho hoàng tử nhìn thấy bốn dấu hiệu đã được chỉ ra bởi
những nhà thông thái là các dấu hiệu Lão – Bệnh – Tử, hay gặp 1 nhà tu
hành khổ hạnh. Nhưng tất cả sự đề phòng của nhà vua đã trở nên vô ích
khi hoàng tử đi du ngoạn với người đánh xe ngựa Sa Nặc, người đã được
sắp đặt sinh cùng ngày với Tất Đạt Đa.
Khi đang ngao du trong một thị trấn nhỏ,
hoàng tử Tất Đạt Đa vô tình nhìn thấy khuôn mặt hằn sâu những nếp nhăn
của một ông lão. Đó chính là dấu hiệu đầu tiên trong dự báo của các nhà
tiên tri: dấu hiệu của Lão. Tất Đạt Đa ngạc nhiên và
hỏi Sa Nặc về người đàn ông đó. Rồi cậu lại nhìn thấy một người đàn ông
bị bệnh và đang ho, nó khiến người cảm thấy khó lý giải. Đó là dấu hiệu
thứ 2 mà các nhà tiên tri đã nói: Bệnh. Cuối cùng,
hoàng tử bắt gặp một đám tang ở bờ sông và một nhà tu hành khổ
hạnh—người đã từ bỏ tất cả các niềm vui thế tục để đạt được sự an lạc
trong nội tâm và hạnh phúc vĩnh hằng. Vậy là 2 dấu hiệu cuối cùng là Tử
và sự hiện diện của một người tu hành khổ hạnh đã xuất hiện trước mắt
Tất Đạt Đa. Sự an lạc từ bi trên gương mặt của nhà sư đã gây ấn tượng
mạnh cho Tất Đạt Đa. Người hỏi Sa Nặc ý nghĩa của tất cả những thứ này.
Người đánh xe ngựa kể cho hoàng tử nghe về hiện thực của cuộc sống mà
đáng ra nên được biết từ lâu.
Trở lại cung điện, Tất Đạt Đa đã xin
phép vua cha cho rời cung điện và trở thành một nhà sư khất thực để tìm
kiếm chân lý cuộc đời.
Với những hạt giống tiềm ẩn được gieo sẵn trong tâm hoàng tử, khi gặp hiện thực xã hội, người đã ngay lập tức hiểu được rằng hết thảy mọi thứ trên đời là phù du và huyễn hoặc và thoảng qua, sự vĩnh hằng của sinh mệnh mới là điều chân chính cần phải kiếm tìm.
Nhà vua Tịnh Phạn cảm thấy rất đau khổ
và thất vọng, những gì ông trù tính rốt cuộc cũng không thành công. Nhà
vua bèn sai binh lính tăng cường phòng ngự nghiêm ngặt xung quanh cung
điện, đồng thời tổ chức thêm nhiều thú vui tiêu khiển để níu chân hoàng
tử, hy vọng làm con mình quên đi những gì đã gặp ngoài xã hội. Đúng lúc
này, phu nhân hoàng tử, công chúa Da Du Đà La đã sinh hạ người con đầu
tiên mà cậu đặt tên là La Hầu La (Rahula), nghĩa là “sự ràng buộc.”
Tất Đạt Đa thấy cuộc sống nhung lụa vô
nghĩa và cuối cùng đã quyết định bỏ trốn trên con ngựa Kiền Trắc với sự
giúp đỡ của người thầy thân tín, Sắc Na. Hoàng tử đã thức dậy trong đêm,
nhìn vợ con lần cuối, rồi lên ngựa, và phóng đi. Trước cổng thành,
hoàng tử cắt đi mái tóc dày và giao lại chiếc áo choàng hoàng tử cho Sắc
Na.
Hành trình đầy gian khổ tìm kiếm chân lý cuộc đời của Tất Đạt Đa
Sau khi rời khỏi cung điện, Tất Đạt Đa
đi đến Vương Xá Thành, kinh đô của nước Ma Kiệt Đà thời Ấn Độ cổ, nơi
người gặp một số vị sư đang thiền định trong các hang động trên núi.
Hoàng tử trở thành đồ đệ của nhà tu hành A La La Ca Lam (Alara Klama),
và được dạy cho cách tu luyện. Sau một thời gian tu luyện, hoàng tử
không thấy tiến bộ hơn nữa nên theo học một nhà tu ẩn dật tên là Ưu Đà
La La Ma Tử (Uddaka Ramaputta).
Tuy nhiên, sau một thời gian, người lại
nhận ra rằng không thể tiến bộ thêm nữa. Do đó, Tất Đạt Đa tham gia cùng
với năm nhà tu hành ở trong rừng Benares để tu luyện bằng cách hành
xác, ăn cực ít và trải nghiệm sự khắc khổ. Từ đó trở đi, người ta bắt
đầu gọi hoàng tử Tất Đạt Đa dưới cái tên Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni),
nghĩa là “nhà hiền triết của dòng họ Thích Ca”. Sau khi tu luyện như vậy
được sáu năm, Thích Ca Mâu Ni phát hiện ra rằng ông chưa đạt được sự
giác ngộ nhưng thân thể thường nhân của ông đã trở nên vô cùng suy kiệt.
Vào một ngày khi ông đang thiền định,
ông bất chợt nghe thấy cuộc trò chuyện giữa hai nhạc công trên một con
thuyền. Người nhạc công dày dạn kinh nghiệm nói với người tập việc rằng
các sợi dây của đàn nguyệt không nên quá căng hoặc quá chùng. Nếu dây
được kéo quá căng, chúng sẽ đứt; và nếu được kéo quá trùng, âm thanh
phát ra sẽ không đúng nữa.
Ngay khi nghe được điều này, Thích Ca Mâu Ni chợt giác ngộ ra được đạo lý trung dung (đi
đường giữa) và không đi sang phía cực đoan; sau đó ông rời đi để tản
bộ. Trên đường đi, ông gặp một cô thôn nữ tên là Sujata, và cô tỏ ý muốn
bố thí bánh gạo cho Thích Ca Mâu Ni; vốn giờ đã quá suy kiệt. Truyền
thuyết kể lại rằng thân thể của Thích Ca Mâu Ni đã trở về bình thường
ngay sau khi ăn nó.
Giác ngộ
Sau đó ông đã ngồi dưới cội Bồ Đề trong
rừng Urvela và nguyện sẽ không ra khỏi trạng thái thiền định nếu không
đạt được sự giác ngộ. Ông đã đối mặt với sự can nhiễu từ một con quỷ tên
là Mara, nó dùng trăm mưu nghìn kế để quấy nhiễu ông nhưng không thể
nào xoay chuyển được ý chí kiên định của Thích Ca Mâu Ni. Khi chứng kiến
việc Thích Ca Mâu Ni đột phá khỏi sự kiềm tỏa của ham muốn và ràng
buộc, Mara trở nên cực kỳ phẫn nộ và nó gửi hàng tá ma quỷ có vũ khí đến
để tấn công Thích Ca Mâu Ni, nhưng Ngài vẫn giữ nguyên trạng thái bất
động.
Sau khi bị đánh bại và nhận ra rằng nó
sẽ không tài nào can nhiễu được đến định lực phi phàm của Thích Ca Mâu
Ni, Mara đã mỉa mai ông và nói rằng mặc dù ông đã chiến thắng, nhưng sẽ
không có ai chứng kiến được điều này. Thích Ca Mâu Ni chạm tay xuống mặt
đất, ám chỉ rằng đất sẽ là vật chứng kiến. Mặt đất bất giác rung chuyển
như để đáp lại rằng nó sẽ chứng kiến cho sự vinh diệu của Thích Ca Mâu
Ni. Từ khoảnh khắc đó, Thích Ca Mâu Ni tiếp tục quá trình thiền định của
ông và cuối cùng đã đạt được sự giác ngộ, trí huệ của ông đã được khai
mở, và ông đã đạt đến cảnh giới của Phật sau 49 ngày thiền định dưới cội
bồ đề.
Thực hiện sứ mệnh tiền định: truyền rộng Phật Pháp, từ bi cứu độ chúng sinh
Ngay sau khi chứng đắc quả vị Phật, ông
bắt đầu sứ mệnh tiền định của mình là truyền rộng Phật Pháp, cứu độ
chúng sinh. Thích Ca Mâu Ni đã giảng bài Pháp đầu tiên cho những người
đồng tu trước đây của ông, năm nhà tu hành ở Benares. Dần dần, số lượng
các đồ đệ của ông đã tăng lên đến con số 80.000.
Khi vua Tịnh Phạn biết được rằng con
trai ông đã trở thành một vị Phật, ông đã cho mời Thích Ca Mâu Ni vào
cung và quở trách việc ông đã đi xin ăn trong khi ông giàu đến nỗi có
thể nuôi hàng nghìn tín đồ. Thích Ca Mâu Ni giải thích cho cha rằng đó
là một yêu cầu của hệ thống tu luyện của ông. Trong thời gian này, người
em trai cùng cha khác mẹ A Nan Đà (Ananda) của Thích Ca Mâu Ni, người
sẽ được phong làm hoàng thái tử và có đính ước với công chúa Tôn Đà Lị
(Sundari), cũng quyết định bước chân vào con đường tu luyện và trở thành
đồ đệ của Thích Ca Mâu Ni. Sau đó, con trai của Thích Ca Mâu Ni là La
Hầu La và mẹ cũng đã trở thành đồ đệ của ông.
Tuy nhiên, những can nhiễu và ghen tỵ
hãm hại cũng có: Đề Bà Đạt Đa (Devadutta), anh họ của Thích Ca Mâu Ni,
đã cố gắng sát hại ông rất nhiều lần vì lòng ghen tỵ, nhưng Đức Phật đều
tha thứ cho ông với lòng từ bi của mình. Tướng cướp Vô Não (Ương Quật
Ma La – Angulimal) cũng đã cố gắng sát hại ông nhưng cuối cùng lòng từ
bi của ông đã hóa giải tất cả và khiến tướng cướp quy phục và cũng trở
thành đồ đệ của ông.
Chúng ta thấy một chân lý qua câu chuyện: Lòng từ bi của Phật có thể hóa giải tất cả
Vào đêm trăng tròn đúng tháng sinh của mình, năm 483 TCN, Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy đệ tử lần cuối trước khi nhập Niết Bàn.
Những lời tiên tri của Phật Thích Ca Mâu Ni về sự đản sinh của một vị Phật tương lai
Trong rất nhiều lời truyền giảng, Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni để lại những lời tiên tri về thời mạt kiếp về sự
đản sinh của một vị Phật tương lai, 2500 năm sau khi Ngài tạ thế, ứng
với thời đại ngày hôm nay của chúng ta…
Kinh Phật ghi lại “Long Hoa tam hội
nguyện tương phùng, sau năm mươi ức năm, Phật Di Lặc hạ thế, giảng Pháp
tam biến, độ hết tất cả chúng sinh hữu duyên.”
Quyển 8 kinh “Huệ Lâm Âm Nghĩa”, có nhắc
tới sự đản sinh của một đức Phật Như Lai hay một đức Chuyển Luân Thánh
Vương, và sự đản sinh của Ngài sẽ đi cùng dấu hiệu nơi thế gian là những
bông hoa Ưu Đàm Bà La, một loài thiên hoa nhỏ li ti trắng muốt, thân
hoa mỏng như sợi tơ, trong suốt, sắc trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra
vầng sáng nhàn nhạt, có khả năng mọc trên bất kỳ chất liệu nào mà những
loài hoa thông thường không thể mọc được như đồng, sắt thép, thủy tinh,
keo dán, trái cây, thực vật, và những bông hoa này cũng được lưu giữ đến
hàng năm không phai tàn…
Kinh Huệ Lâm Âm Nghĩa viết: “Ưu Đàm Hoa,
là lược dịch sai từ tiếng Phạn Cổ. Đúng Phạn Ngữ là Ô Đàm Bạt La, nghĩa
là điềm lành linh dị. Đây là thiên hoa, thế gian không có loại hoa này.
Nếu Như Lai giáng sinh, Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện nơi thế gian
con người, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ đại đức và đại ân của Ngài”
Quyển 4 kinh “Pháp Hoa Văn Cú” viết: “Ưu Đàm Hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện.”
Kinh Phật cũng ghi lại rằng Đức Chuyển
Luân Thánh Vương là vị vua lý tưởng, người sẽ cai trị thế giới không
phải bằng vũ lực mà bằng công lý. Những ai dùng thiện để đối đãi với
người khác sẽ có cơ hội gặp đức Chuyển Luân Thánh Vương, bất kể người đó
thuộc tôn giáo nào – Phật giáo, Cơ Đốc giáo, Khổng giáo hay một tín
ngưỡi nào khác.
Lời tiên tri trong kinh Phật đã ứng
nghiệm, những bông hoa Ưu Đàm Bà La hiện giờ đã khai nở khắp nơi, phải
chăng Đức Chuyển Luân Thánh Vương đã có mặt tại nhân gian và đang cứu độ
chúng sinh rồi?
Một nhà sư người Đài Loan, Thích Chứng Thông đã viết bài thơ cảm kích:
Khi Phật tại thế ta đắc Pháp
Khi Phật Chính Pháp ta đang tìm
Mừng gặp kiếp này đủ phúc phận
Được thấy chân Phật thân vàng kim.
Khi Phật Chính Pháp ta đang tìm
Mừng gặp kiếp này đủ phúc phận
Được thấy chân Phật thân vàng kim.
Hà Phương Linh
https://daikynguyenvn.com/van-hoa-nghe-thuat/cau-chuyen-cuoc-doi-phat-thich-ca-mau-ni-va-loi-tien-tri-cho-thoi-dai-chung-ta.html
Nhãn: Phật giáo
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ