05:43, 21/12/2017

Có bài thơ rằng: 
Đoái xem văn võ cả hai hàng
Bên văn sang bên võ cũng sang
Dù tía võng xanh văn đủng đỉnh
Gươm vàng thẻ bạc võ nghênh ngang
Văn dìu cánh phượng yên trăm họ
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương
Gặp hội thái bình văn trước võ
Võ đâu dám sánh khách văn chương
Bên văn sang bên võ cũng sang
Dù tía võng xanh văn đủng đỉnh
Gươm vàng thẻ bạc võ nghênh ngang
Văn dìu cánh phượng yên trăm họ
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương
Gặp hội thái bình văn trước võ
Võ đâu dám sánh khách văn chương
(Nguyễn Công Trứ)
Trước
 đây, tại một buổi diễn võ thuật cổ truyền đã từng có một vị trí thức 
khả kính tuyên bố rằng dân Việt Nam chúng ta chỉ “Trọng Văn” mà “Khinh 
Võ”. Câu này thực sự cũng là lối nghĩ của rất nhiều người Việt cả bình 
dân cho đến trí thức. Vì thế mà nhà nhà đua nhau cho con đi học hết đại 
học này đến cao học kia mà chẳng còn ai đi theo nghề võ một cách chân 
chính nữa.
Vậy
 thực chất có phải dân ta luôn “Trọng văn khinh võ” hay đằng sau đó còn 
có uẩn khúc nào khác? Câu phát ngôn này nếu giải thích một cách nông cạn
 vô hình trung sẽ làm tổn thương đến giá trị to lớn của võ học trong khi
 lưu truyền ngoài xã hội, cũng có thể làm nước Việt mất đi rất nhiều tài
 năng võ thuật. Vì thế người viết xin mạn phép dùng kiến thức của mình 
để bàn bạc thêm một chút. 
Văn
 và Võ là gì? Triết lý cổ khởi nguồn từ cặp phạm trù đối xứng là Âm và 
Dương, sau đó Kinh Dịch miêu tả sự biến hóa của Âm Dương mà thành vũ 
trụ. Nó cho rằng vũ trụ này mọi việc, mọi vật đều có hai mặt đối lập. 
Nên có Võ tất phải có Văn, là hai mặt của một vấn đề, chính là văn minh,
 văn hóa. Vì Âm và Dương lại là hai mặt đối lập nhưng đồng thời là một 
và bổ sung cho nhau, nó tồn tại không thể tách rời và quan trọng hơn là 
nó có thể chuyển hóa qua lại lẫn nhau. Tức là tùy thời mà Âm có thể 
chuyển thành Dương và ngược lại bởi vì trong Âm luôn có phần Dương và 
trong Dương luôn có phần Âm. Đây là cái lý “Âm trưởng Dương tiêu” hay 
“Dương trưởng Âm tiêu”.  

Vậy
 nên, điều đầu tiên chúng ta cần nhớ là Văn và Võ là một và không thể 
tách rời. Nếu tách ra theo đặc tính thì có thể phân ra như sau: Võ
 là tranh đấu, sát phạt mang theo sát khí lạnh lẽo từ binh khí hay chân 
tay nên tạm thời coi là Âm. Văn chương đem lại văn hóa, văn minh khai 
sáng cho xã hội nên tạm thời coi là Dương. 
Dùng
 nguyên lý trên mà xét thì khi cái Âm phát triển đến tận cùng thì sẽ 
sinh ra hay bắt đầu chuyển thành cái Dương, tức là “Âm cực Dương sinh”. 
Nghĩa là người luyện võ khi luyện đến tận cùng, đỉnh cao võ học thì sẽ 
không còn sát khí tranh đấu nữa mà lại mang một phong thái văn cách nho 
nhã và hòa bình, lời nói nhẹ nhàng và phong cách siêu phàm thoát tục.
Chúng
 ta có thể thấy ví dụ sinh động nhất là các vị vua và võ tướng nhà Trần 
như vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Thượng tướng Thái sư Trần Quang 
Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đều là những cao thủ hàng đầu nhưng
 phong cách lại văn nhã, thanh thoát siêu phàm. Sử cũ còn chép khi sứ 
thần nhà Nguyên đến dự lễ đăng quang của vua Trần Minh Tông, đã khen ông
 có thần thái nhẹ nhàng như Thần tiên.
Còn
 người văn nhân chân chính tuy mảnh dẻ thư sinh, tay trói gà không chặt 
nhưng khi đạt đến đỉnh cao của văn chương thì văn phong hùng tráng, lời 
lời sắc bén như đao, chí khí nhiếp phục tam quân, chính là có được cái 
“dũng” của võ tướng vậy. Ví dụ này thì có rất nhiều, từ Trần Khắc Chung 
chỉ dùng lời nói mà đường hoàng trấn áp tướng lĩnh Mông Cổ ngay trong 
trại giặc, đến Nguyễn Trãi viết thư dụ hàng tướng nhà Minh, những ví dụ 
trên nhiều không kể xiết.
Một
 nguyên lý quan trọng nữa của Dịch lý là: “chúng dĩ quả vi chủ, đa dĩ 
thiểu vi tôn” (đám đông do số ít dẫn dắt, số nhiều tôn trọng số ít). Khi
 nhìn vào đồ hình Âm Dương, chúng ta thấy trong phần Âm luôn có một chấm
 nhỏ thuộc Dương và ngược lại đối với phần Dương. Chiểu theo nguyên lý 
bên trên thì như vậy cũng có nghĩa là phần quan trọng nhất và dẫn động 
cái Âm chính là cái Dương và ngược lại. Hay nói cách khác thì Âm là cốt 
lõi của Dương  và ngược lại.
Điều
 này mang hàm nghĩa là đối với người luyện võ thì phải rèn luyện sao cho
 đạt được “Văn trong Võ” vì Văn chính là cốt lõi và trình độ cao nhất 
của Võ. Ngược lại đối với Người học Văn cũng thế, phải làm sao cho đạt 
được cái “Võ trong Văn” vì Võ và tinh thần dũng cảm cứng rắn của nó là 
điều một văn nhân phải có. Vậy suy ra người luyện võ chân chính cũng 
phải đạt đến một trình độ văn học cao thì mới được công nhận là cao thủ 
chân chính. Vậy thì hóa ra Văn là cái đích phải đạt đến của người luyện 
Võ. Dân ta nói “Trọng văn khinh võ” chẳng phải là rất đúng hay sao?

Ngoài
 ra thì võ học chính là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa cổ Việt, 
một nền văn minh nhiều nghìn năm. Nên chữ “Văn” còn có nghĩa là nền văn 
minh, là văn hóa. Dân ta nói “Trọng văn” nghĩa là người dù học Võ hay 
học Văn đều phải ra sức vun đắp và bảo vệ cho nền văn minh này thoát 
khỏi những kẻ dã man và tạo ra thời thịnh trị. Hay nói cách khác Văn của
 văn minh chính là lý do chính mà Võ ra đời, vì để bảo vệ cho văn minh 
truyền lưu ngàn đời mà luyện võ công vậy. Đó là chữ Văn trong “văn trị” 
mà chúng ta hay nghe nói đến trong lịch sử. Nên những triều đại toàn 
thịnh đều là những thời mà võ công đệ nhất và văn hóa đỉnh cao, các danh
 tướng triều đại đó đều cũng là những văn nhân nổi tiếng, đâu có ai dám 
chê bai Võ lời nào?
Vậy
 hàm nghĩa chân chính của câu “Trọng văn khinh võ” ở đây chính là yêu 
cầu đối với người Luyện Võ hay Học Văn đều phải Văn Võ Toàn Tài.Và cái 
thứ Võ bị khinh ở đây chính là Võ Biền, thứ Võ thô lỗ và không có văn 
hóa hay thứ sức mạnh dã man của những tộc người du mục chưa có văn minh 
và chỉ thích hủy diệt vì thứ Võ đó của họ không có nội hàm Văn ở bên 
trong. Người viết cho rằng những dân tộc đó không xứng để dùng chữ Võ, 
vốn mang hàm nghĩa quý trọng hòa bình và nhân cách. Có chăng chỉ gọi là 
phương pháp chiến đấu. 
Câu
 “Trọng văn khinh võ” chính là nêu lên sự trân trọng đối với những người
 luyện võ chân chính để đạt đến một trình độ văn hóa cao. Ngược lại cũng
 không hiếm những ví dụ cho thấy dân ta rất chán ghét những văn nhân 
không có cốt khí, mềm yếu bạc nhược trong lịch sử. Những văn gia nổi 
tiếng trong sử Việt đều là các anh hùng dân tộc hay những con người rắn 
rỏi đạo đức cao thượng 1 đời vì dân vì nước. Ví dụ như Nguyễn Trãi, 
Nguyễn Công Trứ, Tô Hiến Thành… Đây cũng là chuẩn mực cao mà các võ giả 
hay văn nhân luôn mong muốn đạt được. 
Đọc
 đến đây thì chắc các bạn cũng hiểu vì sao chúng tôi không nói đến khái 
niệm Võ đạo của các nền võ thuật phương Tây hay Âu Mỹ. Đó là nền võ 
thuật kinh doanh sức mạnh phô trương của cơ bắp, của tính sát phạt hơn 
thua mà không thể hiện sự chân chính của giá trị nhân văn. Nó nên được 
gọi là nền thể thao chiến đấu chứ thậm chí không xứng được dùng chữ Võ 
nữa. 

Trần
 Hưng Đạo, các vua Trần và các tướng lĩnh nhà Trần như Phạm Ngũ Lão, 
Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những người văn võ song toàn. Họ 
vừa có tài cầm binh với võ công siêu phàm, cũng là những nhà thơ, nhà 
văn với những áng văn thơ bất hủ như “Hịch tướng sĩ”, “Thuật hoài”, 
“Tụng giá hoàn kinh sư”. Trong khi
 đó quân Nguyên Mông với cái Võ không có văn hóa đang giày xéo khắp thế 
giới khi đối địch với Võ đạo Đại Việt kết hợp giữa văn hóa và võ công đã
 thua 3 lần tâm phục khẩu phục. 
Đệ nhất Kiếm Thánh Nhật Bản mọi thời đại Miyamoto Mushashi có viết: “Người
 đời truyền tụng rằng, đạo của binh gia là sự kết hợp kỳ diệu của Bút 
đạo và Kiếm đạo, và kẻ là võ sĩ nên tinh thông văn võ. Ngay cả khi một 
người không có tư chất thiên bẩm, anh ta vẫn có thể trở thành binh gia 
bằng cách kiên tâm theo đuổi cả hai lĩnh vực đó” (Trích “Ngũ Luân Thư”).
Vậy
 nói tóm lại, câu thành ngữ “Trọng văn khinh võ” của ông cha ta hàm ý 
chân chính là để người tu luyện võ công hay người học văn đều phải cố 
gắng rèn luyện để đạt đến trình độ cao nhất là văn võ toàn tài, góp sức 
bảo vệ cho nền văn minh khỏi bị ngoại bang xâm lấn. Nhìn lại lịch sử, 
dân tộc ta vào những thời toàn thịnh của mình đã đạt được điều tưởng như
 bất khả này và đã tạo nên những võ công hiển hách nhất thế giới xưa 
nay. Những người nào cố ý bóp méo ý nghĩa câu nói này nhằm mục đích hạ 
thấp vị trí của võ học chính là mang tội muôn đời với di sản của dân tộc
 vậy. 
Học võ chân chính tức là làm người Việt chân chính 
Như
 đã bàn luận bên trên, Võ cũng chính là Văn và là một bộ phận quan trọng
 của nền văn minh. Mà nền văn minh thì còn có nhiều giá trị khác rất 
quan trọng và mang tính căn bản. Vậy nên học Võ cũng chính là học về văn
 minh, văn hóa chính thống của cha ông. Vậy nên người viết mới mạnh dạn 
mà nói rằng, học võ chính là làm người Việt chân chính. Bởi vì Võ học 
cũng bao hàm trong nó tất cả những tinh hoa cổ về văn hóa mà một người 
Việt chân chính cần phải có. 
Gốc
 rễ của văn hóa chính là nền tảng đạo đức của nền văn hóa ấy. Đạo đức 
của dân tộc ta gồm rất nhiều tính cách, nhưng cũng không ra ngoài Ngũ 
hành, vì Ngũ hành cấu thành nên vạn sự vạn vật trong vũ trụ này. Từ Ngũ 
hành tương ứng mà sinh ra Ngũ thường, 5 đức tính lớn mà một dân tộc văn 
minh phải có là: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. 
Vì
 để bảo vệ 5 đức tính ấy không bị giặc giã man di làm mất đi mà võ công 
chính thống của Việt Nam thông thường có 5 hình thái lớn về quyền pháp 
nội công là Ngũ Hình Quyền ( Long, Hổ, Báo, Xà, Hạc) để tương ứng với 
Ngũ Hành và các chiêu thức biến hóa lấy từ Bát Quái và Kinh Dịch. Dĩ 
nhiên có 1 số võ phái không công nhận điều này vì họ có cách phân chia 
khác, nhưng dù có chia thế nào đi nữa thì đặc tính các phần đó cũng 
không ra ngoài Ngũ Hành và Âm Dương Bát Quái. Nó lại cũng là một yêu cầu
 dành cho các võ sinh muốn đạt được trình độ cao từ sư phụ phải có đầy 
đủ đức hạnh để không dùng năng lực của võ vào việc xằng bậy, sống một 
cách chân chính quân tử.

Ngoài
 ra còn đặc tính Âm Dương của vũ trụ cũng thể hiện rõ trong cách đối 
nhân xử thế của tổ tiên Việt tộc. Đó chính là thuận theo tự nhiên mà lúc
 cứng rắn, lúc mềm mỏng ôn hòa. Hai mặt phối hợp với nhau mà tạo ra một 
tính cách thích nghi vô địch với mọi hoàn cảnh khắc nghiệt từ chiến 
tranh cho đến thiên tai mà ông cha ta đã có thể giữ gìn quốc gia và bản 
sắc dân tộc cho mấy nghìn năm biến động. Cũng là lý do mà các chiêu thức
 của võ Việt luôn coi trọng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cương và nhu 
nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong chiến đấu.
Đặc
 tính Âm Dương này thể hiện ở cá nhân thì là cách xử thế, thể hiện ở 
chiến tranh thì là sự phối hợp giữa đoản binh và trường trận để giành 
thắng lợi tối hậu với chi phí thấp nhất. Thể hiện ở bang giao chính là 
chính sách dùng Đức trị vỗ về các dân tộc thiểu số, lúc cần thiết thì 
cứng rắn dùng vũ lực đập tan xâm lược, chiến tranh, sau đó thì ngoại 
giao mềm mỏng chủ động “xưng thần” để khỏi phải làm mất mặt nước lớn mà 
vẫn giữ được độc lập.
Thể
 hiện ở võ công chính là cương nhu phối hợp, giữa quyền và cước, giữa 
nội công và ngoại kình, giữa cơ và cân nhằm đạt đến cảnh giới cao hơn 
của Võ học. Người luyện võ gồm cả cương nhu sẽ thể hiện ra ngoài là một 
người đạo đức cao nhưng vẫn rất uyển chuyển khéo léo, lịch thiệp trong 
giao tiếp trong khi vẫn có cái uy đủ để chấn nhiếp đối thủ mà không phải
 động võ.
Ngày
 nay nền học thuật hiện đại chỉ chú trọng nào là máy bay tàu hỏa, súng 
đạn mà ít khi quan tâm đến sự phát triển của tinh thần con người nên mới
 có chiến tranh, mới có những kẻ võ biền ức hiếp kẻ khác, mới có mâu 
thuẫn giàu nghèo. Trong khi đó võ học vừa đúng đi con đường ngược lại, 
chính là từ trong việc rèn luyện thân thể với một yêu cầu khắt khe về 
tâm tính mà tạo ra một thế hệ võ nhân (không phải võ sĩ, chúng tôi muốn 
dùng chữ này để nói về người luyện võ chân chính chứ không phải dùng võ 
mà kiếm sống đơn thuần) có năng lực trùm đời trong khi vẫn có trình độ 
văn hóa cao và đạo đức khiêm tốn.
Chính
 những người này mới là những người thực sự có thể bảo vệ nước Việt khỏi
 họa xâm lăng cả về súng đạn và văn hóa. Họ mới là người có thể lưu giữ 
nét đẹp cổ phác của Việt tộc, người giúp cho con cháu chúng ta sau này 
còn nói được tiếng Việt và biết tôn trọng lễ nghĩa, thờ cúng tổ tiên. 
Mất đi những thứ đó, sẽ không còn cái gọi là dân Việt, nước Việt. Vậy 
nên nói học võ Việt một cách chân chính mới đúng là cách trở thành một 
người Việt chân chính là vậy.
(Còn nữa) 
Tĩnh Thủy
Tĩnh Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét