Cách chơi cờ tướng - Thông tin về Cờ tướng - Lịch sử cờ tướng - Hướng dẫn cách chơi cờ tướng - Luật chơi cờ tướng
Mục đích của ván cờ
Ván cờ được tiến hành giữa hai người, một người cầm quân Trắng (hay Đỏ),
một người cầm quân Đen (hay Xanh lá cây). Mục đích của mỗi người là tìm
mọi cách đi quân trên bàn cờ theo đúng luật để chiếu bí Tướng (hay
Soái, hoặc Suý) của đối phương và giành thắng lợi.
Bàn cờ và quân cờ
Tướng, Sỹ và Cửu cung
Bàn cờ là một hình chữ nhật do 9 đường dọc và 10 đường ngang cắt nhau
vuông góc tại 90 điểm hợp thành. Một khoảng trống gọi là sông (hay hà)
nằm ngang giữa bàn cờ, chia bàn cờ thành hai phần đối xứng bằng nhau.
Mỗi bên có một cung Tướng hình vuông (Cửu cung) do 4 ô hợp thành tại các
đường dọc 4, 5, 6 kể từ đường ngang cuối của mỗi bên, trong 4 ô này có
vẽ hai đường chéo xuyên qua.
Theo quy ước, khi bàn cờ được quan sát chính diện, phía dưới sẽ là quân
Trắng (hoặc Đỏ), phía trên sẽ là quân Đen. Các đường dọc bên Trắng (Đỏ)
được đánh số từ 1 đến 9 từ phải qua trái. Các đường dọc bên Đen được
đánh số từ 9 tới 1 từ phải qua trái.
Ranh giới giữa hai bên là “sông” (hà). Con sông này có tên là “Sở hà Hán
giới” (楚河漢界)- con sông định ra biên giới giữa nước Sở và nước Hán. Theo
lịch sử Trung Hoa cổ thì khởi nghiệp nhà Hán, Lưu Bang có cuộc chiến
liên miên với Sở vương là Hạng Vũ. Cuộc chiến giữa hai bên làm trăm họ
lầm than. Hạng Vũ bèn nói với Hán vương: “Mấy năm nay thiên hạ khốn khổ
chỉ vì hai chúng ta. Bây giờ quyết một trận sống mái để khỏi làm khổ
thiên hạ nữa”. Hán vương trả lời: “Ta chỉ đấu trí chứ không thèm đấu
sức”. Hai bên giáp mặt nhau ở khe Quảng Vũ. Hán vương bèn kể 10 tội lớn
của Hạng vương, Hạng vương tức giận dùng nỏ bắn trúng Hán vương, Hán
vương đeo tên chạy vào Thành Cao. Hai bên giữ vững đất của mình. Mãi đến
khi thấy không còn đủ lực lượng để triệt hạ lẫn nhau, hai bên mới chịu
giao ước chia đôi thiên hạ: từ Hồng Câu về Tây thuộc Hán, từ Hồng Câu về
Đông thuộc Sở. Từ điển tích này, người ta hình dung bàn cờ tướng như
hai quốc gia Hán và Sở, coi ranh giới là một dòng sông. Cho tới nay,
trên các bàn cờ tướng, ở khoảng “hà” nằm chính giữa, chia đôi bàn cờ,
người ta thường ghi “Sở hà Hán giới” (bằng chữ Hán) là vì như vậy.Mỗi
ván cờ lúc bắt đầu phải có đủ 32 quân, chia đều cho mỗi bên gồm 16 quân
Trắng (Đỏ) và 16 quân Đen, gồm 7 loại quân. Tuy tên quân cờ của mỗi bên
có thể viết khác nhau (ký hiệu theo chữ Hán) nhưng giá trị và cách đi
quân của chúng lại giống nhau hoàn toàn. Bảy loại quân có ký hiệu và số
lượng cho mỗi bên như sau:
Một thanh niên Việt chơi cờ tướng trên một bàn cờ khổng lồ tại một hội chợ Tết
QuânKí hiệuSố lượngTướng
1Sỹ
2Tượng
2Xe
2Pháo
2Mã
2Tốt
5
Lịch sử
Đây loại cờ có từ khoảng thế kỷ 7. Cờ tướng được bắt nguồn từ Saturanga,
một loại cờ cổ được phát minh ở Ấn Độ từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 6 (trước
cờ tướng khoảng 200 năm). Chính Saturanga được phát minh từ Ấn Độ, sau
đó đi về phía tây, trở thành cờ vua và đi về phía Đông trở thành cờ
tướng. Người Trung Quốc cũng đã thừa nhận điều này.
Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất là
quân Pháo được bổ sung từ thời nhà Đường (sau năm 618), là quân cờ ra
đời muộn nhất trong bàn cờ tướng, bởi cho tới thời đó, con người mới tìm
ra vũ khí pháo để sử dụng trong chiến tranh.
Tuy nhiên, người Trung Hoa đã cải tiến bàn cờ Saturanga như sau:
Họ không dùng “ô”, không dùng hai màu để phân biệt ô, mà họ chuyển sang
dùng “đường” để đặt quân và đi quân. Chỉ với động tác này, họ đã tăng
thêm số điểm đi quân từ 64 của Saturanga lên 81.
Đã là hai quốc gia đối kháng thì phải có biên giới rõ ràng, từ đó, họ
đặt ra “hà”, tức là sông. Khi “hà” xuất hiện trên bàn cờ, 18 điểm đặt
quân nữa được tăng thêm. Như vậy, bàn cờ tướng bây giờ đã là 90 điểm so
với 64, đó là một sự mở rộng đáng kể. Tuy nhiên, diện tích chung của bàn
cờ hầu như không tăng mấy (chỉ tăng thêm 8 ô) so với số điểm tăng lên
tới 1 phần 3.
Đã là quốc gia thì phải có cung cấm (宮) và không thể đi khắp bàn cờ như
kiểu trò chơi Saturanga được. Thế là “Cửu cung” đã được tạo ra. Điều này
thể hiện tư duy phương Đông hết sức rõ ràng.
Bàn cờ Saturanga có hình dáng quân cờ là những hình khối, nhưng cờ Tướng
thì quân nào trông cũng giống quân nào, chỉ có mỗi tên là khác nhau,
lại được viết bằng chữ Hán. Đây có thể là lý do khiến cờ tướng không
được phổ biến bằng cờ vua, chỉ cần liếc qua là có thể nhận ra đâu là
Vua, đâu là Hoàng hậu, kỵ sỹ, v.v. Tuy nhiên, đối với người Trung Hoa
thì việc thuộc mặt cờ này là không có vấn đề gì khó khăn. Có lẽ việc cải
tiến này cũng một phần là do điều kiện kinh tế bấy giờ chưa sản xuất
được bộ cờ có hình khối phức tạp như cờ vua. Cờ tướng không phải là một
trò chơi sang trọng, muốn tạo ra một bàn cờ tướng cực kỳ đơn giản, chỉ
cần lấy que vạch xuống nền đất cũng xong, còn cờ vua thì mất công hơn
nhiều khi phải tạo ra các ô đen/trắng xen kẽ nhau.
Gần đây ngày càng có nhiều ý kiến đề nghị cải cách hình dáng các quân cờ
tướng và trên thực tế người ta đã đưa những phác thảo của những bộ quân
mới bằng hình tượng thay cho chữ viết, nhất là khi cờ tướng được chơi ở
những nước không sử dụng tiếng Trung Quốc.
Với sự thay đổi bố cục bàn cờ, người Trung Hoa đã phải có những điều
chỉnh để lấy lại sự cân bằng cho bàn cờ. Đó chính là những ngoại lệ mà
người chơi phải tự nhớ. (Xem thêm phần Mã, Tướng).
Xuất xứ tên gọi
Bàn cờ tướng thật sự là một trận địa sinh động, có tầng có lớp và thật
hoàn hảo: đủ các binh chủng trên chiến trường, công có, thủ có, các quân
được chia thành ba lớp xen kẽ hài hoà. Lại còn có cả sông, cung cấm.
Hình tượng quốc gia hoàn chỉnh, có vua tôi, có 5 binh chủng, có quan ở
nhà, quân ra trận v.v…, vừa có ý nghĩa, vừa mang sắc thái phương Đông rõ
nét, vì vậy người Trung Hoa đặt tên cho cờ này là Tượng kỳ (象棋) với ý
nghĩa “tượng” là hình tượng, tức là cờ có đầy đủ ý nghĩa được thể hiện
bằng hàng loạt các hình tượng.
Tuy nhiên, cũng có một số tài liệu lý giải rằng, vì Trung Hoa không có
voi, khi tiếp nhận Saturanga thấy trong các quan có quân voi lạ nên
người Trung Hoa bèn gọi là “tượng kỳ” để kỷ niệm một loại cờ lạ có con
voi. Như thế có người suy ra “tượng kỳ” có nghĩa là cờ voi.
Mà có khi chữ “tượng” là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên cả hai ý nghĩa
trên, vì chữ “tượng” chỉ có một cách viết mà thôi và nó có hình dáng con
voi thật.
Ở Việt Nam thì từ xưa tới nay vẫn gọi là cờ tướng chứ không ai gọi là cờ
tượng cả. Tướng cầm đầu thì phải gọi là cờ tướng. Đó cũng là nét hay
của ngôn ngữ Việt, dễ gần gũi, dễ hiểu. Khi cờ vua du nhập vào Trung
Quốc, họ gọi nó bằng cái tên rất dài là “Quốc tế tượng kỳ” (cờ voi thế
giới) và cho đến nay họ vẫn gọi như vậy, trong khi người Việt chỉ gọi
một tên ngắn gọn lại là cờ vua.
Nguyên tắc chơi
Quân cờ được di chuyển theo luật sau:
1. Tướng: Đi từng ô một, đi ngang hoặc dọc. Tướng luôn luôn phải ở trong
phạm vi cung và không được ra ngoài. “Cung” tức là hình vuông 3×3 được
đánh dấu bởi lằng chéo hình chử X.
2. Sĩ: Đi xéo 1 ô mỗi nước. Sĩ luôn luôn phải ở trong cung như con Tướng.
3. Tượng: Đi chéo 2 ô (ngang 2 và dọc 2) cho mỗi nước đi. Tượng chỉ được
phép ở một bên của bàn cờ, không được di chuyển sang nữa bàn cờ của đối
phương. Nước đi của tượng sẽ không hợp lệ khi có một quân cờ nằm chặn
giữa đường đi.
4. Xe: Đi ngang hay dọc trên bàn cờ miễn là đừng bị quân khác cản đường từ điểm đi đến điểm đến.
5. Mã: Đi ngang 2 ô và dọc 1 ô (hay dọc 2 ô và ngang 1 ô) cho mỗi nước
đi. Nếu có quân nằm ngay bên cạnh mã và cản đường ngang 2 (hay đường dọc
2), mã bị cản không được đi đường đó.
6. Pháo: Đi ngang và dọc giống như xe. Điểm khác biệt là nếu pháo muốn
ăn quân, pháo phải nhảy qua đúng 1 quân nào đó. Khi không ăn quân, tất
cả những điểm từ chổ đi đến chổ đến phải không có quân cản.
7. Tốt: (hay Binh) đi một ô mỗi nước. Nếu chốt chưa vượt qua sông, nó
chỉ có thể đi thẳng tiến. Khi đã vượt sông rồi, chốt có thể đi ngang 1
nước hay đi thẳng tiến 1 bước mỗi nước.
8. Ăn quân: Khi quân di chuyển đến 1 vị trí giử bởi quân đối phương, quân đối phương bị ăn và bị lấy ra khỏi bàn cờ.
9. Chống tướng: Hai con tướng trên bàn không được nằm trên cùng 1 cột
dọc mà không có quân cản nào ở giữa. Nước đi để 2 con tướng trong vị trí
chống tướng là không hợp lệ.
10. An toàn của tướng: Sau 1 nước đi, tướng của bên đã đi không được để
quân đối phương ăn ngay trong nước tiếp. Những nước để tướng không an
toàn là không hợp lệ.Thông thường bị xử lý lổi kỹ thuật,nếu 1 ván cờ bị
phạm 3 lổi thì sẽ thua.
Kết thúc trận đấu:
Ván cờ kết thúc khi 1 trong những tình huống sau:
• Chiếu bí: Nếu một bên chiếu (bắt tướng), và đối thủ không có khả năng đở, bên chiếu tướng thắng.
• Hết nước đi: Nếu bên tới phiên đi nhưng không có nước hợp lệ để đi, bên đó sẽ bị thua.
• Khi một hoặc 2 bên bị phạm lổi.
Luật nâng cao
Để cho ván cờ được công bằng, một số nước đi bị hạn chế. Trong khi đánh
cờ ,hạn chế không cho phép bất cứ bên nào đuổi một quân cờ của đối
phương liên tục bằng một hoặc nhiều quân của mình. Tùy theo quân bị đuổi
là tướng hay không, những nước đuổi đó gọi là chiếu dai hay đuổi dai.
Từ vựng: Để cho luật được chính xác, những từ sau được định nghĩ một cách chính xác:
1. Chiếu tướng: Bất cứ nước đi nào làm cho tướng đối phương có thể bị bắt trong nước tiếp.
2. Thí quân: Một quân di chuyển đến vị trí mà nó có thể bắt quân cùng
loại của đối phương và quân đó cũng có thể bắt nó lại nếu đối phương
muốn.
3. Đuổi quân: Một quân di chuyển đến vị trí mà nó có thể bắt một quân
nào đó của đối phương (không phải tướng) trong nước tiếp. Một nước cũng
được gọi là nước đuổi bắt nếu nước đó tạo điều kiện cho pháo hăm dọa bắt
quân đối phương. Sau đây là một vài ngoại lệ: Khi nước đi của tướng hay
chuột hăm dọa quân đối phương, nước đi đó không được cho là nước đuổi
quân. Nước đi hăm dọa chuột chưa sang sông không được cho là nước đuổi
quân. Nước thí quân không được cho là nước đuổi quân.
4. Quân được bảo vệ: Một quân bị đuổi được gọi là được bảo vệ nếu bất cứ
quân đuổi của đối phương nếu ăn nó có thể bị ăn lại ngay trong nước kế
tiếp. Một ngoại lệ là xe không bao giờ được cho là được bảo vệ khi nó bị
đuổi bởi pháo hay mã của đối phương.
Luật cao cấp:
Tất cả mọi nước đi theo luật căn bản là hợp lệ ngoại trừ trong những tình huống sau:
1. Chiếu dai: Chiếu liên tục đối phương bằng một hoặc nhiều quân của mình là không hợp lệ.
2. Đuổi dai: Liên tục đuổi một quân của đối phương bằng một hoặc nhiều
quân của mình là không hợp lệ Khi một bên vi phạm luật cao cấp và người
kia không vi phạm, bên vi phạm bị xử thua. Luật cho phép 1 bên chiếu
hoặc đuổi 6 nước liên tục với 1 quân, 12 nước liên tục với 2 quân, và 18
nước liên tục với 3 quân trước khi áp dụng luật cao cấp.
Luật Xử Hòa
Khi không có bên nào có thể thắng, người chơi nên quyết định hòa ván cờ.
Để đề phòng trường hợp một trong hai bên cố tình kéo dài ván cờ quá lâu
thì sẽ được sự can thiệp của Ban trọng tài.
Các quân cờ
Tướng

Tướng (hay Soái)
Ở Trung Hoa, vua là thiên tử (con trời), do vậy, nếu nhắc tới vua thì
phải tôn kính, sùng bái. Bất cứ một hành động, một câu nói nào hớ hênh
đối với vua đều bị ghép vào tội “khi quân” và bị xử trảm. Có quân vua
trên bàn cờ Saturanga là bình thường, nhưng sang tới Trung Hoa thì không
thể được. Các quan lại trong triều đình không thể cam lòng nhìn đám dân
quê cứ réo lên tên vua ầm chiếu, rượt đuổi, khi đã hãm được thành thì
lại cầm một quân, có khi chỉ là một quân tốt quèn, đạp lên đầu vua đánh
chát, rồi hét lên “giết!” một cách hả hê. Biết đâu lại chẳng có kẻ lợi
dụng trò chơi này để bày tỏ sự bất phục của mình với vương triều. Các
nhà cải cách đã cải tên từ “vua” thành “tướng” hay “soái” cho quân này,
với lời giải thích: Tướng hay soái là chỉ huy cao nhất, quan trọng nhất;
bên nào giết được tướng hay soái thì hiển nhiên thừa thắng trận, đâu
cần tới lượt vua. Cách cải cách tên này đã giải thoát một trong những
vấn đề tế nhị và phức tạp nhất về mặt ý thức hệ, và chỉ có như thế trò
chơi Saturanga mới được chấp nhận. Tuy nhiên, đó chỉ là cách thay đổi
tên, thay đổi bề ngoài, hình thức mà thôi, chứ quân cờ này thực chất vẫn
là vua. Vì tướng thì phải xông pha trận mạc, không thể ru rú trong
cung, có hai Tượng và Sỹ kè kè bên cạnh bảo vệ. Cách đổi tên chỉ là một
mẹo vặt để giữ sỹ diện cho vua mà thôi.
Tướng được chốt chặt trong cung và có tới 2 Sỹ và Tượng canh gác hai
bên. Khi lâm nguy, tất cả sẵn sàng xả thân “hộ giá”. Chính điều này làm
cho quân địch dù có liều chết lăn xả vào cũng không chắc đã thắng được.
Như thế muốn thắng một ván cờ cũng rất khó khăn, cơ may hoà cờ là rất
lớn. Từ một thực tế như vậy, luật “lộ mặt Tướng” được thiết lập: một bên
Tướng đã chiếm được một lộ rồi mà Tướng bên kia thò mặt ra lộ ấy là bị
thua ngay lập tức, dù hai Tướng ở cách xa nhau muôn trùng. Chính điều
này làm cho sự việc trở nên rất khó giải thích bởi cả Saturanga cũng như
cờ vua đều không có tuyệt chiêu này. Thực ra đây chỉ là một quy định
đơn thuần mang tính kỹ thuật nhằm cứu vãn cho sự ỳ ạch của cờ tướng, cho
sự quá kín mít của Cửu cung. Việc Tướng chiếm lộ thông chính là việc
phong luôn cho Tướng vai trò kép “Xe và Tướng”. Xe là quân cực mạnh, do
đó chiến thắng sẽ dễ dàng hơn.
Do có luật “lộ mặt Tướng” nên sẽ có hệ quả: Tướng bên này mặc nhiên
chiếm luôn một phần ba diện tích Cửu cung của đối phương, khiến đất
nương thân của đối phương bị thu hẹp đáng kể. Đó là chưa nói nếu Tướng
chiếm được lộ giữa thì Tướng của đối phương mất tới hai phần ba cung cấm
của mình, nghỉa là chỉ còn vỏn vẹn có 3 điểm dể di chuyển. Lúc đó đối
phương chỉ còn 1 quân cũng có thể tóm gọn được dù rằng đang ở ngay trong
cung cấm của mình. Trong khi cờ tướng khi Tướng mất hết đường chạy thì
thua chứ không hoà như trong cờ vua. Vì vậy, tỷ số thắng thua ở cờ tướng
sau khi có ngoại lệ này đã tăng vọt, chấm dứt tình trạng hoà cờ trì trệ
như từ trước đến nay.
Tính theo khả năng chiến đấu thì Tướng là quân yếu nhất do chỉ đi nước
một và bị giới hạn trong cung. Tuy nhiên trong nhiều tình huống, đặc
biệt khi cờ tàn đòn “lộ mặt tướng” lại tỏ ra rất hiểm và mạnh. Lúc này
Tướng mạnh ngang với Xe.
Sỹ

Sỹ
Trong cờ vua, quân cố vấn được đổi thành quân Hoàng hậu, nhưng ở Trung
Hoa, phụ nữ không được tham gia chính sự nên không thể có mặt bên cạnh
vua trong bàn cờ được. Trong cờ tướng, quân Sỹ có vai trò “hộ giá” cho
Tướng (hoặc Soái). Chúng đứng ngay sát cạnh Tướng, chỉ đi từng bước một
và đi theo đường chéo trong Cửu cung. Như vậy, chúng chỉ di chuyển và
đứng tại 5 điểm và được coi là quân cờ yếu nhất vì bị hạn chế nước đi.
Sỹ có chức năng trong việc bảo vệ Tướng, mất Sỹ được cho là nguy hiểm
khi đối phương còn đủ 2 Xe hoặc dùng Xe Mã Tốt tấn công. Bỏ Pháo ăn Sỹ
rồi dùng 2 Xe tấn công là đòn chiến thuật thường thấy.
Trong tàn cuộc, Sỹ thường được đưa lên cao để làm ngòi cho Pháo tấn công.
Tượng

Tượng/ Tịnh
Quân Tượng đứng bên cạnh quân Sỹ và tương đương với Tượng trong cờ vua.
Quân này đi theo đường chéo của hình vuông gồm 4 ô cờ. Chúng không được
qua sông, chúng có nhiệm vụ ở lại bên này sông để bảo vệ vua. Chỉ có 7
điểm mà Tượng có thể di chuyển tới và đứng ở đó.
Tượng sẽ không di chuyển được đến vị trí đã nêu nếu có 1 quân đặt tại vị
trí giữa của hình vuông 4 ô. Khi đó ta gọi là Tượng bị cản và vị trí
cản được gọi là “mắt Tượng”.
Tượng được tính là mạnh hơn Sĩ một chút. Khả năng phòng thủ của Tượng
cũng được tính nhỉnh hơn. Nói chung mất Tượng cờ dễ nguy hơn mất Sĩ.
Xe

Xe
Quân Xe đi và ăn theo một đường thẳng đứng hoặc ngang giống hệt quân Xe
trong cờ vua. Chúng bắt đầu nước đi từ phía góc của bàn cờ, chúng được
coi là quân cờ mạnh nhất trong cờ tướng.
Pháo

Pháo
Quân Pháo đi giống quân Xe, theo chiều thẳng đứng hoặc ngang, nhưng ăn
quân bằng cách nhảy qua 1 quân cờ khác. Hãy tưởng tượng Cửu cung với
thành cao hào sâu, có lực lượng bảo vệ canh gác ngày đêm, Tướng thì
chẳng bao giờ ra khỏi cung, lấy cách gì mà đột phá vào đây. Xe tuy thông
suốt như thế nhưng nếu có quân đứng chặn đường thì cũng phải dừng lại.
Nhưng với Pháo thì bất chấp tất cả. Pháo có thể kéo tới tận góc mà nã
đạn cầu vồng vào trong cấm cung tiêu diệt Tướng. Pháo có thể kéo hẳn về
cung mình dùng chính Sỹ cuả mình làm ngòi để chiếu hết tướng đối phương.
Quân Pháo có quyền lực mạnh ở lúc bắt đầu, lúc bàn cờ còn nhiều quân,
nhưng quyền lực đó giảm dần về sau. Trên thực tế thì có tới 70% khai
cuộc là dùng Pháo. Đơn giản và thô lỗ nhất là nã ngay Pháo tiêu diệt Mã
đối phương (người chơi như thế gọi là hiếu sát). Còn thông thường là hai
bên cùng kéo pháo vào lộ giữa, gọi là đương đầu Pháo. Kéo Pháo cùng bên
gọi là trận Thuận Pháo, kéo Pháo vào ngược bên nhau gọi là trận Nghịch
Pháo (hay Liệt Pháo).
Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều nhất trí là
quân Pháo được bổ sung từ thời nhà Đường. Đây là quân cờ ra đời muộn
nhất trên bàn cờ tướng vì tới thời đó, pháo được sử dụng trong chiến
tranh với hình thức là một loại máy dùng để bắn những viên đá to. Bấy
giờ, từ Pháo trong chữ Hán được viết với bộ “thạch”, nghĩa là đá. Cho
đến đời nhà Tống, khi loại pháo mới mang thuốc nổ được phát minh thì
quân Pháo đã được viết lại với bộ “hỏa”.
Kể từ khi xuất hiện Pháo, bàn cờ tướng trở nên cực kỳ sôi động, khói lửa
mịt mù từ đầu tới cuối trận với biết bao nhiêu đòn Pháo vô cùng hiểm
hóc. Chính cặp Pháo này đã nâng cờ tướng lên một tầm cao hoàn toàn mới,
khiến cho cờ tướng trở nên cực kỳ độc đáo, tách rời bỏ hoàn toàn bóng
dáng của trò Saturanga. Người châu Âu, châu Mỹ cũng có Pháo nhưng họ
không nghĩ tới và không đưa được Pháo vào bàn cờ, muốn có được nó thì
phải thay đổi hoàn toàn cấu trúc của bàn cờ. Nếu cờ vua vẫn để nguyên 64
ô đen trắng thì Pháo đặt vào đâu được. Đặt vào có khi lại bị vào trường
hợp “quân mình bắn quân ta”. Có thể nói pháo là quân cờ lợi hại nhất
trong cờ tướng.
Mã

Mã
Với bàn cờ được cải tiến như hiện nay, đất rộng và có vô số đường để
tung hoành, Mã sẽ phi nước đại trên khắp bàn cờ. Sự thái quá của Mã như
thế sẽ làm cho việc tiêu diệt quân trở nên quá nhanh, công mạnh hơn thủ,
và nhất là Tướng sẽ bị uy hiếp nặng nề nếu hai Mã đối phương sang được
trận địa bên này. Mã trong cờ vua không bị luật cản bởi bàn cờ vua chật
hẹp, các Tốt của cờ vua móc xích nhau cản trở rất lớn nên việc tung
hoành của Mã so với bàn cờ tướng là khó khăn hơn nhiều. Nếu không có
ngoại lệ để giảm bớt đà của Mã trong bàn cờ tướng thì các đòn đánh thâm
hậu dễ bị phá sản và vai trò của các quân sẽ bị mất cân đối. Từ khi có
luật cản Mã, cờ trở nên ôn hoà, sâu sắc và mưu mẹo phải cao hơn, nghệ
thuật dùng quân để “cản Mã” cũng tinh vi hơn, khiến cho Mã dù đã “ngọa
tào” hay “song Mã ẩm tuyền” cũng không dễ gì bắt được Tướng đối phương
nếu bất ngờ bị một quân khác chèn vào “chân”. Những đòn nhằm vào tướng
như thế nếu ở cờ vua thì vua hết đường cựa nhưng ở cờ tướng thì vua hoàn
toàn có thể rút Xe hoặc Pháo từ trận địa xa phía bên kia về để cứu nguy
nhờ phép cản Mã tài tình. Nếu ở Pháo có nguyên tắc mà không người chơi
cờ nào không thuộc là “cờ tàn Pháo hoàn” với vai trò hỗ trợ Pháo của Sỹ
là vô cùng quan trọng thì đối với Mã ở cờ tàn là việc tích cực ào lên
tấn công. Khi đó những nước chống đỡ của đối phương phụ thuộc rất nhiều
vào vị trí làm thế nào để cản được chân Mã hơn là làm thế nào để tiêu
diệt được Mã, bởi bàn cờ lúc này rất trống trải, Mã tha hồ tung hoành.
Quân mã đại diện cho đơn vị lính kị binh, đó là sự mô phỏng hình tượng
kị binh cầm giáo phi đại đâm xiên kẻ thù. Chính vì bắt buộc phải dùng
tốc độ thì sát thương mới cao nên để hạn chế kị binh hay bắt chết mã chỉ
có cách là chèn chân tương ứng với “cản mã” như ở trên. Đó là sự tinh
tế thâm thúy của người Trung Hoa so với phương Tây dù rằng việc sử dụng
kị binh phương tây nắm rất rõ
Tốt

Tốt (hoặc Binh)
Binh pháp của Trung Hoa không giống như của Ấn Độ. Trên nền tảng quân sự
của mình, người Trung Hoa đã sáng tạo ra cách bày quân như sau: Thứ
nhất, lính tráng phải ra nơi biên ải để giữ gìn đất nước. Như vậy, sát
với sông, người ta cắt cử 5 quân Tốt cách đều nhau để giữ tuyến đầu.
Hình tượng 5 con tốt tượng trưng cho đơn vị quân đội nhỏ nhất ngày xưa
là 1 đội gồm 5 người lính, họ sử dụng 5 loại binh khí khác nhau. Trận
chiến bây giờ không nằm ở hai hàng dưới nữa mà đã được đẩy lên rất cao
phía trên. Việc các quân Tốt chỉ có số lượng như vậy đã tránh được
chuyện “bịt đường” như ở cờ vua, tạo sẵn ra 4 đường mở cho các quân bên
dưới có thể năng động xông lên, thậm chí tấn công được ngay chứ không bị
bó chân ngay từ đầu như ở cờ vua. Cách bố trí 5 quân Tốt này là phương
án tối ưu cho cấu trúc của bàn cờ, vì nếu là 4 hay 6 thì khó đặt ở bàn
cờ cho cân đối. Quân Tốt ở đây tương tự như quân Tốt ở cờ vua, chúng đi
thẳng theo chiều đứng và có thể ăn quân từng bước một. Khi Tốt qua được
sông, chúng có thể đi và ăn theo chiều ngang. Không giống như trong cờ
vua, chúng không có luật phong Hậu, hay Xe,… khi đi đến hết bàn cờ, lúc
này, chúng được gọi là Tốt lụt. Việc mất mát một vài Tốt ngay từ đầu
cũng không thành một “thảm họa” như trong cờ vua.
Cách ghi nước đi
Trong các thế cờ, để ghi lại vị trí và sự dịch chuyển quân cờ, người ta thường ghi lại các nước đi như sau:
- Dấu chấm (.) là tiến
- Dấu gạch ngang (–) là đi ngang (bình)
- Dấu gạch chéo (/) là lùi (thoái)
Mỗi nước được ghi theo thứ tự: số thứ tự nước đi, tên quân cờ, vị
trí và sự dịch chuyển quân cờ. Ví dụ, nước đầu, Đỏ đi Pháo 2 bình 5, bên
Đen mã 8 tiến 7 thì ghi:
P2-5 M8.7
Nước thứ hai, Đỏ đưa Pháo ở cột 8 lùi 1 bước, Đen đưa Tốt cột 7 lên một bước.
- P8/1 B7.1
Nếu Pháo (hay Mã, Xe) nằm trên một đường thì ghi Pt là Pháo trước, Ps là Pháo sau.
Nếu có 3 Tốt nằm trên cùng một cột thì ký hiệu Bt (Binh trước), Bg (Binh giữa), Bs (Binh sau).
Các giai đoạn của một ván cờ
Người ta thường chia ván cờ ra làm ba giai đoạn: khai cuộc, trung cuộc và tàn cuộc.
Khai cuộc
Thường khai cuộc được tính trong khoảng 5-12 nước đầu tiên. Các nghiên
cứu mới cho biết khai cuộc đóng góp rất quan trọng vào khả năng thắng
của một ván cờ. Khai cuộc có thể đóng góp đến 40% trong khi trung cuộc
và tàn cuộc đóng góp 30% mỗi giai đoạn. Có rất nhiều dạng khai cuộc khác
nhau, nhưng nói chung, có 2 loại chính: khai cuộc Pháo đầu và khai cuộc
không Pháo đầu.
Khai cuộc Pháo đầu
Tên của các khai cuộc được đặt tuỳ theo cách đi của bên đi sau, chỉ nêu vài loại chính:
- Thuận Pháo
- Nghịch Pháo (Liệt Pháo)
- Bán đồ Liệt Pháo
- Pháo đầu đối Bình phong Mã
- Pháo đầu đối Phản cung Mã
- Pháo đầu đối Đơn đề Mã
- Pháo đầu đối Phi Tượng
- Pháo đầu đối Uyên ương Pháo
- Pháo đầu đối Quy bối Pháo
Khai cuộc không Pháo đầu
- Tiến Tốt (Tiên nhân chỉ lộ)
- Khởi Mã cuộc
- Phi Tượng cuộc
- Quá cung Pháo
- Sĩ Giác Pháo
- Quá cung Liễm Pháo
Trung cuộc
Khai cuộc và tàn cuộc do có vị trí và số lượng quân cờ có thể quy chung
về một số dạng chính nên người ta đã nghiên cứu và tổng kết được các
dạng như trên. Còn ở trung cuộc, thế cờ lúc này theo kiểu “trăm hoa đua
nở” nên chủ yếu vận dụng các chiến thuật cơ bản như:
- Bắt đôi: cùng một lúc đuổi bắt hai quân.
- Nội kích: đánh từ phía trong.
- Kích thẳng vào Tướng.
- Chiếu tướng bắt quân.
- Điệu hổ ly sơn: làm cho một quân hay Tướng phải rời vị trí của nó.
- Dẫn dụ: đây là đòn thu hút quân đối phương đến vị trí dễ bị công
kích hoặc bị vây hãm, sau đó kết hợp với chiến thuật bịt chắn lối đi,
đường rút của đối phương.
- Tạo ách tắc: dùng chiến thuật thí quân để gây ách tắc, hết đường cựa của đối phương.
- Ngăn trở, chia cắt: đòn này thường dùng cách thí quân để làm sự liên lạc giữa các quân bị cắt đứt.
- Khống chế: chiến thuật này ngằm ngăn trở tầm hoạt động và sự cơ động của đối phương.
- Dịch chuyển: chiến thuật này chú ý đến sự linh hoạt của các quân.
- Bao vây.
- Trợ sức: các quân trợ sức cho nhau để cùng chiếu.
- Vu hồi: đánh vòng từ phía sau.
- Qua lại: chiến thuật này dùng để thủ thế hay công sát.
- Quấy nhiễu.
- Nước lơ lửng: đi một “nước vô thưởng vô phạt” để nhường nước cho đối phương, khiến đối phương phải đi một nước “tự sát”.
- Giam quân: khi một bên đang trong tình thế nguy hiểm, nhưng sử dụng
một nước khéo léo giam quân mạnh của đối phương (có thể dùng cách thí
quân), sau đó dùng các quân còn lại để gỡ bí.
- Vừa đỡ vừa chiếu lại.
- Vừa đỡ vừa trả đòn.
Tàn cuộc
Tàn cuộc là giai đoạn tổng số quân cờ, đặc biệt là quân tấn công (Xe, Pháo, Mã, Tốt) cả hai bên còn rất ít.
- Xe chống Sĩ Tượng toàn
- Xe Tốt chống Sĩ Tượng toàn
- Mã Tốt chống Sĩ Tượng toàn
- Đơn Mã chống Tướng
- Đơn Tốt bắt Tướng
- Đơn Mã thắng Tướng
- Đơn Xe thắng song Tượng
- Xe và Tốt lụt thắng đơn Xe
- Đơn Xe thắng đơn Tướng
- Tốt chống Tướng
- Tam tử quy biên
Chơi cờ tướng đòi hỏi điều gì?
Khác với cờ vua, cờ tướng đòi hỏi người chơi phải có tư duy chiến thuật,
chiến lược tốt mới có thể giành thắng lợi. Trong khi đối với cờ vua,
khả năng nhớ của người chơi đóng góp nhiều hơn trong việc thủ thắng. Tại
sao? Trong cớ tướng khả năng đi ít hơn trong cờ vua. Lý do: bộ Tướng,
Sĩ, Tượng không có nhiều khả năng đi, chỉ đi trong ô vuông cho trước.
Con Tốt cũng không thể biến thành con khác, con Mã lại bị cản. Trong cờ
vua thì không có những ràng buộc này. Vì vậy cờ vua biến hóa phức tạp
hơn, đòi hỏi người chơi trí nhớ thật tốt.
Các hình thức chơi cờ tướng khác
Cờ thế
Chơi cờ thế là hình thức chơi cờ mà bàn cờ lúc ban đầu đã có sẵn các thế
cờ, quân cờ đang ở các vị trí như trong một ván cờ dang dở, mức độ thế
cờ từ dễ đến khó và người chơi phải thắng được sau một số nước đi được
yêu cầu từ trước. Cờ thế hay được thấy ở các lễ hội dân gian.
Cờ bỏi
Cờ bỏi cũng là một hình thức đánh cờ tướng, nhưng quân cờ là những thẻ
gỗ sơn son thếp vàng, có cán dài chừng 1 m, tên quân cờ được viết ở hai
mặt, cắm vào các ô đã định sẵn trên sân. Người đánh phải tự nhấc quân cờ
để đi, trước khi đi quân, phải có hiệu lệnh bằng trống bỏi. Từng đôi
một vào thi đấu ở sân cờ. Thực chất đây là một bàn cờ lớn và nhiều người
có thể cùng xem được.
Cờ người
Đoàn “Cờ người” trước khi bước vào trận đấu. Người đứng đầu tiên là Tướng Bà, sau đó là 1 quân Tốt, tiếp theo là 2 quân Sỹ…
Trong các lễ hội dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, cờ người là một trong
những cuộc thi đấu thu hút được rất nhiều người đến xem và cổ vũ. Thông
thường, nơi diễn ra trận cờ người là sân đình của làng. Quân cờ là những
nam thanh nữ tú được làng kén chọn, vừa phải đẹp người, vừa phải đẹp
nết. Tướng được phục trang như sau: đội mũ tướng, soái, mặc triều phục
bá quan văn võ, chân đi hài thêu, lọng che. Sĩ đội mũ cánh chuồn có tua
vàng. Mỗi người trong đội cờ cầm một chiếc trượng phía trên có gắn biểu
tượng quân cờ được trạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đội
nam mặc áo đỏ, đội nữ mặc áo vàng với thắt lưng theo lối xưa.
Trước khi vào vị trí của mỗi người trên sân cờ, cả đội cờ múa theo tiếng
trống, đàn, phách. Sau khi quân cờ đã vào các vị trí, một hồi trống dài
nổi lên, hai đấu thủ cờ mặc áo dài, khăn xếp xuất hiện để được giới thiệu
danh tính, mỗi người cầm một cây cờ đuôi nheo ngũ sắc nhỏ để chỉ huy
trận đánh. Quanh sân, hàng trong thì khán giả ngồi, hàng ngoài đứng,
chăm chú thưởng thức ván cờ và bàn tán râm ran. Khi cờ đến hồi gay cấn,
cả sân xôn xao, một nước xuất thần, cả sân đều ồ lên khoái trá. Nếu quân
cờ nào đó đi hơi chậm là có tiếng trống bỏi lanh canh vui tai nhắc nhở
“cắc…tom tom”. Bên lề sân có một cái trống to thỉnh thoảng được gióng
lên một hồi điểm cho những nước đi. Khi Tướng bị chiếu, tiếng trống dồn
dập, đám đông lại càng đông hơn, đã náo nhiệt lại càng náo nhiệt thêm.
Đặc biệt hơn trong một số lễ hội, thỉnh thoảng người ta còn đọc những
lời thơ ứng khẩu bình những nước đi trong sân trên chiếc loa ở sân.
Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương có bài thơ vinh cuộc cờ người:
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,Ðốt đèn lên đánh cuộc cờ người.Hẹn rằng đấu trí mà chơi,Cấm ngoại thủy không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,Ðể đôi ta quyết liệt một phen.Quân thiếp trắng, quân chàng đen,Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.Hai
xe hà, chàng gác hai bên,Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.Chàng lừa
thiếp đương khi bất ý,
Ðem tốt đầu dú dí vô cung,Thiếp đang mắc nước xe lồng,Nước pháo đã nổ
đùng ra chiếu.Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịuThua thì thua quyết
níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
Cờ tưởng
Cờ tưởng là hình thức đánh cờ bằng trí tưởng tượng, không nhìn bàn cờ
thật. Kiểu chơi này thường đòi hỏi người chơi phải có trình độ cao, nhớ
được các nước đi, thế cờ hiện tại.
Cờ một thế trận
Cờ một thế trận là trong ván cờ, chỉ được chơi một thế trận như: Thuận
Pháo,… Các ván cờ thường khởi đầu với những chiêu thức cũ, nhưng sau đó
là rất nhiều phương án khác đa dạng độc đáo, biến hoá kỳ ảo. Giải cờ này
hay được tổ chức tại Trung Quốc.
Cờ chấp
- Chấp quân: Quân bị chấp sẽ được bỏ ra ngoài bàn cờ ngay từ đầu. Thường là chấp Xe, Pháo, 2 Mã và 1 Mã.
- Chấp nước đi: Người được chấp sẽ được đi một vài nước trước, rồi mới
đến lượt người chấp. Quân đi trước sẽ không được ăn quân hoặc qua sông.
Thường là chấp 1-2-3 nước đi trước. Từ chuyên dùng gọi là chấp 1-2-3
tiên.
Trên thực tế có thể phối hợp cả 2 loại chấp trên, như chấp Mã và đi trước 2 nước (Mã 2 tiên).
Cờ úp
Được chơi nhiều gần đây ở Việt Nam. Các quân cờ trừ tướng được che khuất
bằng cách dùng một cái nắp nhựa úp lên. Kiểu chơi này đòi hỏi người
chơi phải nhớ quân tốt hơn. Một biến thể nữa là xáo trộn các quân và đặt
chúng ở vị trí ngẫu nhiên nhưng có lẽ kiểu chơi này đã đi quá xa và
không nên coi là cờ tướng.
Thành ngữ trong cờ tướng

Chơi cờ tướng trên phố ở Trung Quốc
- Mã nhật, Tượng điền, Xe liền, Pháo cách.
- Cờ tàn, Pháo hoàn.
- Khuyết Sỹ kỵ song Xa.
- Khuyết Tượng kỵ Pháo.
- Khuyết Sĩ kỵ Mã.
- Nhất Sỹ chòi góc, cóc sợ Mã công.
- Tốt nhập cung Tướng khốn cùng.
- Mã nhập cung Tướng khốn cùng (hay Mã nhập cung Tướng lùng bùng).
- Xe mười Pháo bảy Mã ba.
- Nhất Xe sát vạn.
- Cờ bí dí Tốt.
- Nhất chiếu nhất cách (đi một nước khác sau mỗi lần chiếu, cầu hòa)
- Được thế bỏ Xe cũng tốt, mất tiên khí tử toi công.
- Nhất tốt độ hà, bán xa chi lực (một Tốt sang sông có sức mạnh bằng nửa Xe).
- Pháo đầu Xuất tướng Xe đâm thọc.
- Pháo đầu, Mã đội, xe lên hà.
- Pháo giáp Mã
- Mất xe không bằng què Tượng
- Tướng mất Sĩ như đĩ mất váy…
- Hạ thủ bất hoàn.
Các câu đối và thơ về cờ tướng
Trải Hạ Thu Đông gặp tiết Xuân về càng phấn chấnSo Cầm Thi Họa thêm
bàn Cờ nữa mới thanh cao.Tiểu liệt, Đại liệt giao tranh kịch liệtBình
xa, Hoành xa chiến lược cao xa.
…Phải nhìn cho rộng suy cho kỹKiên quyết không ngừng thế tấn công……
Lạc nước hai Xe đành bỏ phíGặp thời một Tốt cũng thành công….…..
Tấn công phòng thủ không sơ hởĐại tướng anh hùng mới xứng danh(Trích bài “Học đánh cờ” trong tập
“Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh)Thắt lưng hoa lý mắt câu huyềnSỹ
Tượng gươm trần gác mỗi bênEm làm bà Tướng lòng anh đóAnh nguyện xin làm
phận Tốt đen.(Bài “Hội cờ người” của N.V.C)Thoạt mới vào chàng liền
nhảy ngựaThiếp vội vàng vén phứa tịnh lên(Thơ Hồ Xuân Hương)
Quan kỳ bất ngữ chân quân tửTiến thủ vô hồi đại trượng phu
Các nhà vô địch cờ tướng Việt Nam
Trước năm 1945
Giải được chia theo 2 miền Bắc và Nam:
Bắc Kỳ
Nam Kỳ
Miền Bắc
Chỉ có 3 lần tổ chức giải:
Miền Nam
Không tổ chức giải
Sau 1975
Sau khi đất nước thống nhất, đến tận năm 1992, giải vô địch quốc gia Việt Nam mới được tổ chức lần đầu tiên tại Đà Nẵng.
Nam
Năm |
Địa điểm tổ chức |
Vô địch |
Hạng nhì |
Hạng ba |
1992 |
Quảng Nam-Đà Nẵng |
Mai Thanh Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Trần Văn Ninh
(Quảng Nam Đà Nẵng) |
Diệp Khai Nguyên
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
1993 |
Hà Nội |
Mai Thanh Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Trịnh A Sáng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Trần Văn Ninh
(Quảng Nam Đà Nẵng) |
1994 |
Thành phố Hồ Chí Minh |
Mai Thanh Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Trần Văn Ninh
(Quảng Nam Đà Nẵng) |
Mong Nhi
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
1995 |
Quảng Nam-Đà Nẵng |
Mai Thanh Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Trương Á Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Võ Văn Hoàng Tùng
(Quảng Nam Đà Nẵng) |
1996 |
Hà Nội |
Trịnh A Sáng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Diệp Khai Nguyên
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Bùi Dương Trân
(?) |
1997 |
Thành phố Hồ Chí Minh |
Trương Á Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Mai Thanh Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Trịnh A Sáng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
1998 |
Đà Nẵng |
Mai Thanh Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Trần Đình Thủy
(Bà Rịa-Vũng Tàu) |
Đào Cao Khoa
(Bộ Công an) |
1999 |
Bà Rịa - Vũng Tàu |
Đào Cao Khoa
(Bộ Công an) |
Trịnh A Sáng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Mai Thanh Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2000 |
Thành phố Hồ Chí Minh |
Trịnh A Sáng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Mong Nhi
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Diệp Khai Nguyên
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2001 |
Bình Định |
Trịnh A Sáng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Mai Thanh Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Võ Văn Hoàng Tùng
(Đà Nẵng) |
2002 |
Hà Nội |
Trịnh A Sáng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Trương Á Minh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Đào Quốc Hưng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2003 |
Đà Nẵng |
Đặng Hùng Việt
(Hà Nội) |
Trần Đình Thủy
(Bà Rịa-Vũng Tàu) |
Trần Văn Ninh
(Đà Nẵng) |
2004 |
Thành phố Hồ Chí Minh |
Nguyễn Vũ Quân
(Hà Nội) |
Đào Cao Khoa
(Bà Rịa-Vũng Tàu) |
Nguyễn Hoàng Lâm
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2005 |
Quảng Ninh |
Nguyễn Vũ Quân
(Hà Nội) |
Trịnh A Sáng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Võ Văn Hoàng Tùng
(Đà Nẵng) |
2006 |
Bà Rịa - Vũng Tàu |
Trịnh A Sáng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Nguyễn Thành Bảo
(Bà Rịa-Vũng Tàu) |
Nguyễn Hoàng Lâm
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2007 |
Thành phố Hồ Chí Minh |
Nguyễn Thành Bảo
(Bà Rịa-Vũng Tàu) |
Nguyễn Vũ Quân
(Hà Nội) |
Tôn Thất Nhật Tân
(Đà Nẵng) |
2008 |
Cao Bằng |
Trịnh A Sáng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Võ Văn Hoàng Tùng
(Đà Nẵng) |
Nguyễn Hoàng Lâm
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2009 |
Bình Dương |
Nguyễn Vũ Quân
(Hà Nội) |
Nguyễn Trần Đỗ Ninh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Nguyễn Thành Bảo
(Hà Nội) |
2010 |
Bình Phước |
Võ Minh Nhất
(Bình Phước) |
Nguyễn Hoàng Lâm
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Vũ Hữu Cường
(Hà Nội) |
2011 |
Thành phố Hồ Chí Minh |
Nguyễn Thành Bảo
(Hà Nội) |
Nguyễn Hoàng Lâm
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Bùi Dương Trân
(Bình Dương) |
2012 |
Hà Nội |
Nguyễn Hoàng Lâm
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Đào Quốc Hưng
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Tôn Thất Nhật Tân
(Đà Nẵng) |
2013 |
Thành phố Hồ Chí Minh |
Lại Lý Huynh
(Bình Dương) |
Nguyễn Trần Đỗ Ninh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Tôn Thất Nhật Tân
(Đà Nẵng) |
2014 |
Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lại Lý Huynh
(Bình Dương) |
Nguyễn Hoàng Lâm
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Huỳnh Linh
(Cần Thơ) |
Nữ
Năm |
Vô địch |
Hạng nhì |
Hạng ba |
1992 |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
|
|
1993 |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
|
|
1994 |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
|
|
1995 |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
|
|
1996 |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Châu Thị Ngọc Giao
(Bình Định) |
|
1997 |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
|
|
1998 |
Châu Thị Ngọc Giao
(Bình Định) |
|
|
1999 |
Hoàng Hải Bình
(Bình Định) |
|
|
2000 |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
|
|
2001 |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Hoàng Hải Bình
(Bình Định) |
2002 |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Nguyễn Hoàng Ngọc Thảo
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2003 |
Phạm Thu Hà
(Hà Nội) |
Hà Mai Hoa
(Bộ Công an) |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2004 |
Hoàng Hải Bình
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Lê Thị Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2005 |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Hoàng Hải Bình
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Phạm Thu Hà
(Hà Nội) |
2006 |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Nguyễn Phi Liêm
(Bộ Công an) |
Hoàng Hải Bình
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2007 |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Nguyễn Hoàng Yến
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Đàm Thị Thuỳ Dung
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2008 |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Hoàng Hải Bình
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Cao Phương Thanh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2009 |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Nguyễn Hoàng Yến
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Cao Phương Thanh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2010 |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Cao Phương Thanh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Nguyễn Hoàng Yến
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2011 |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Nguyễn Hoàng Yến
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Hoàng Hải Bình
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2012 |
Cao Phương Thanh
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Ngô Thu Hà
(Bộ Công an) |
Nguyễn Thị Hồng Hạnh
(Bộ Công an) |
2013 |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Hồ Thị Thanh Hồng
(Bình Định) |
Nguyễn Hoàng Yến
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
2014 |
Đàm Thị Thùy Dung
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Ngô Lan Hương
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Nguyễn Hoàng Yến
(Thành phố Hồ Chí Minh) |
Kỷ lục cờ tướng
- Chơi cờ tưởng: Ngày 25 tháng 2 năm 1995, Đại kỳ sư Trung Quốc
Liễu Đại Hoa đã bịt mắt, đánh cờ tưởng (tức là đánh cờ tướng nhưng không
cần nhìn bàn cờ) với 19 kỳ thủ có đẳng cấp. Kết quả, sau 7 giờ 20 phút,
ông đã thắng 9, hoà 8 và chỉ thua 2 ván.
- Chơi cờ đồng loạt: Ngày 30 tháng 5 năm 1996, Từ Thiên Hồng, danh thủ
cờ tướng Trung Quốc, một mình đấu cùng lúc với 100 đối thủ. Cuộc đấu cờ
dài 9 giờ 28 phút với kết quả: ông thắng 83 ván, hoà 16 ván và thua 1
ván.
Các giai thoại về cờ tướng
- Giai thoại “Thua cờ mất Hoa Sơn”: Hoa Sơn là một quả núi cao ở
Trung Quốc. Ván cờ được chơi giữa một bên là Triệu Khuông Dẫn và một bên
là Hy di Đạo sỹ Trần Đoàn.
- Giai thoại “Chuyện ở Bích Mai Trang”: Bích Mai Trang là ngôi biệt
thự ở bên bờ con sông đào phía bắc kinh thành Huế xưa. Ván cờ được chơi
giữa một bên là cụ Trịnh, chủ ngôi biệt thự trên, một lão kỳ thủ trứ
danh với Trà Hương, một kỳ thủ nữ trẻ.
- Giai thoại “Chu Tấn Trinh đánh cờ”: Chu Tấn Trinh là một kỳ thủ trứ
danh người Trung Quốc, ông đã chơi một ván cờ nổi tiếng với vị sư trụ
trì ngôi chùa cổ.
- Giai thoại “Ván cờ giữa Cao Bá Quát và vua Tự Đức”.
Các danh thủ cờ tướng
- Kỳ thủ nam Việt Nam: Mai Thanh Minh, Trịnh A Sáng, Đào Cao Khoa, Đặng Hùng Việt, Nguyễn Vũ Quân, Nguyễn Thành Bảo,Lê Thiên Vị
- Kỳ thủ nữ Việt Nam: Lê Thị Hương, Ngô Lan Hương, Hoàng Hải Bình, Phạm Thu Hà
Kỳ thủ nam Trung Quốc: Hồ Vinh Hoa, Liễu Đại Hoa, Lã Khâm, Hứa Ngân Xuyên, Từ Thiên Hồng, Hồng Trí.(wikipedia)
Giải vô địch cờ tướng thế giới là giải đấu do
Liên đoàn cờ tướng thế giới
đứng ra tổ chức. Mỗi đoàn tham dự được cử đi 3 kỳ thủ (2 nam, 1 nữ)
tranh giải chính là ba giải: cá nhân nam, cá nhân nữ, đồng đội nam.
Ngoài ra các đoàn có thể cử thêm kỳ thủ tranh giải Phi Hoa Việt duệ
(dành cho kỳ thủ không phải gốc Hoa và gốc Việt). Nước chủ nhà cũng chỉ
được cử một đoàn. Có một số trường hợp đặc biệt là
Malaysia và
Mỹ, mỗi quốc gia này được cử hai đoàn Đông và Tây.
Giải lần đầu tiên được tổ chức năm 1990. Năm sau đó tổ chức giải thứ
hai. Kể từ đó giải diễn ra đều đặn hai năm một lần. Tính đến năm 2013
giải đã tiến hành được 13 lần.
Kết quả
Chi tiết một số giải
Giải lần thứ 11 tổ chức vào tháng 12/2009 tại tỉnh Sơn Đông, Trung
Quốc, từ 28/8-3/9. Giải này có 93 kỳ thủ (bao gồm 13 nữ) thuộc 28 quốc
gia và vùng lãnh thổ tham gia tranh tài 3 nội dung: cá nhân, đồng đội
nam và cá nhân nữ. Mỗi nội dung thi đấu từ 9 đến 11 ván. Ngôi vô địch
từng nội dung sẽ được nhận tiền thưởng từ 20.000 đến 50.000 nhân dân tệ.
Thống kê
- Kỳ thủ vô địch thế giới nhiều lần nhất là Lữ Khâm với 5 lần, tiếp theo là Hứa Ngân Xuyên (3 lần)
- Người đoạt nhiều huy chương nhất là Ngô Quý Lâm, tuy chưa lần nào vô địch. Ông có 1 huy chương bạc và 6 huy chương đồng.
- Ngôi vô địch thế giới nam chưa lọt khỏi tay đội Trung Quốc lần nào. Ngôi vô địch thế giới nữ mới 3 lần thuộc về các đoàn ngoài Trung Quốc, tuy nhiên vẫn là các kỳ thủ gốc Hoa
- Nguyễn Vũ Quân là kỳ thủ không phải gốc Hoa (Phi Hoa duệ) đầu tiên đoạt huy chương thế giới (huy chương đồng 2005)
Chú thích và tham khảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét